Nguồn vốn FDI cho các dự án điện ở Việt Nam - Hiện trạng, rủi ro, cơ hội và giải pháp chính sách
12:26 | 23/07/2024
Khung giá nào cho nguồn thủy điện tích năng ở Việt Nam? Bộ Công Thương đang lấy ý kiến về dự thảo “Thông tư quy định phương pháp xây dựng khung giá thủy điện tích năng”. Góp ý thêm cho dự thảo này, chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam có bài viết tổng hợp, phân tích dưới đây. Trân trọng gửi tới các chuyên gia, nhà quản lý và bạn đọc. |
THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ FDI NĂM 2023 VÀ CHÍNH SÁCH, KHUNG PHÁP LÝ HIỆN HÀNH:
Để thực hiện các mục tiêu đặt ra tại Quy hoạch điện VIII, ngành điện cần được đầu tư khoảng 135 tỷ USD từ năm 2021 đến năm 2030, tương đương 33% GDP hiện tại của Việt Nam.
Trong tổng số 135 tỷ USD đầu tư giai đoạn 2021-2030, theo Quy hoạch điện VIII có khoảng 119,8 tỷ USD được phân chia cho các dự án nguồn điện, tập trung vào phát triển nguồn điện gió, điện khí LNG và khoảng 14,9 tỷ USD được dành cho các khoản đầu tư vào lưới truyền tải điện.
Những con số đầu tư đáng kể này thể hiện cam kết của Việt Nam trong việc tăng cường cơ sở hạ tầng điện và mở rộng công suất để đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng tăng. Tuy nhiên, với khoản đầu tư 135 tỷ USD trong 10 năm đối với ngành điện sẽ là quá lớn đối với tăng trưởng tín dụng dài hạn hiện nay của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Vì vậy, khoản tín dụng dài hạn này sẽ phụ thuộc đáng kể vào việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI) và trái phiếu doanh nghiệp, trong đó chú trọng đến trái phiếu xanh.
Dưới đây, nêu một vài nét thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong những năm qua và phân tích về các chính sách trong việc huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam nói chung và ngành điện nói riêng.
I. Một vài nét về thực trạng thu hút đầu tư FDI năm 2023:
1. Khối lượng vốn FDI năm 2023:
Theo báo cáo thường niên 2023 về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam do VAFIE ban hành: Vốn FDI đăng ký mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đạt gần 36,61 tỷ USD, tăng 32,1%; vốn FDI thực hiện đạt khoảng 23,18 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm 2022.
Có 3.188 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, tăng 56,6%; vốn đăng ký đạt gần 20,19 tỷ USD tăng 62,2%.
Có 1.262 lượt dự án điều chỉnh vốn đầu tư, tăng 14%, vốn tăng thêm đạt 7,88 tỷ USD, giảm 22,1%.
Có 3.451 giao dịch GVMCP của nhà ĐTNN, giảm 3,2%, giá trị vốn góp đạt hơn 8,5 tỷ USD, tăng 65,7% so với cùng kỳ.
STT | Chỉ tiêu | Năm 2021 | Tỷ lệ | Năm 2022 | Tỷ lệ | Năm 2023 | Tỷ lệ |
| Tổng vốn đăng ký (tỷ USD) | 31,153 | 100 % | 27,718 | 100 % | 36,607 | 100 % |
1 | Đăng ký cấp mới (tỷ USD) | 15,245 | 49,0 % | 12,446 | 45,0 % | 20,185 | 55,1 % |
2 | Đăng ký tăng thêm (tỷ USD) | 9,014 | 29,0 % | 10,117 | 36,0 % | 7,880 | 21,5 % |
3 | Góp vốn, mua cổ phần (tỷ USD) | 6,893 | 22,0 % | 5,154 | 19,0 % | 8,541 | 23,3 % |
|
|
|
|
|
|
|
|
2. FDI theo lĩnh vực đầu tư:
Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành trong tổng số 21 ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt hơn 23,5 tỷ USD, chiếm 64,2% tổng vốn đầu tư đăng ký và tăng 39,9% so với cùng kỳ.
Đây là cơ hội để các doanh nghiệp nội địa tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp lớn trên thế giới. Ngành kinh doanh bất động sản đứng thứ 2, với tổng vốn đầu tư gần 4,67 tỷ USD, chiếm hơn 12,7% tổng vốn đầu tư đăng ký, tăng 4,8% so với cùng kỳ. Các ngành sản xuất, phân phối điện xếp thứ 3 với tổng vốn đăng ký đạt hơn 2,37 tỷ USD, tăng 4,9 %; ngành tài chính - ngân hàng xếp thứ 4 với tổng vốn đăng kí đạt gần 1,56 tỷ USD, gấp gần 27 lần. Còn lại là các ngành khác.
3. FDI tính theo đối tác đầu tư:
Có 111 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Các nhà đầu tư đến từ châu Á - đối tác đầu tư truyền thống vẫn chiếm tỷ trọng lớn (Singapore, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan). Đầu tư của 6 đối tác châu Á đã chiếm tới 78,8% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam.
Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư hơn 6,8 tỷ USD, chiếm 18,6% tổng vốn đầu tư vào Việt Nam, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2022. Nhật Bản đứng thứ 2, với gần 6,57 tỷ USD, chiếm hơn 17,9% tổng vốn đầu tư, tăng 37,3% so với cùng kỳ. Hồng Kông đứng thứ 3, với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 4,68 tỷ USD, chiếm gần 12,8% tổng vốn đầu tư, gấp 2,1 lần so với cùng kỳ. Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan... đứng ở các vị trí tiếp theo. Trong đó, 10 đối tác đứng đầu năm 2023 có vốn đăng ký 33,0 tỷ USD, chiếm 90,3% tổng vốn đăng ký năm 2023.
4. FDI trong khu kinh tế, khu công nghiệp (KCN):
Đến cuối năm 2023, cả nước có 413 KCN được thành lập, với tổng diện tích đất khoảng 120 nghìn ha. Có 19 khu kinh tế (KKT) ven biển, với tổng diện tích khoảng 871,5 nghìn ha, gồm diện tích đất liền khoảng 583,1 nghìn ha và diện tích mặt biển 288,4 nghìn ha.
Trong năm 2023 các KCN, KTT của Việt Nam đã thu hút được 27,72 tỷ USD vốn đầu tư. Lũy kế đến nay, các KCN, KTT thu hút được trên 11,2 nghìn dự án FDI với 238,6 tỷ USD, vốn FDI thực hiện đạt 69% và 10,4 nghìn dự án trong nước với 2,54 triệu tỷ đồng, vốn thực hiện đạt 46,5%.
Năm 2022 tổng tài sản các doanh nghiệp FDI là 9.444.170 tỷ đồng, tăng 7,9% so với năm 2021. Trong đó 5 lĩnh vực chiếm 91% tổng tài sản của các doanh nghiệp FDI gồm: Doanh nghiệp ngành chế biến, chế tạo (60%), tài chính, ngân hàng, bảo hiểm (10%), bất động sản (7%), sản xuất chế biến, khí đốt, điều hòa (4%) và khoa học, công nghệ (4%). Vốn chủ sở hữu các doanh nghiệp FDI đạt 4.069.190 tỷ đồng, tăng 11,7%; vốn đầu tư chủ sở hữu tăng gần 14%, lợi nhuận lũy kế (chưa phân phối) là 1.012.064 tỷ đồng, tăng 3,8% so với năm 2021.
Tuy nhiên, tại nhiều địa phương, trong vài năm gần đây vốn FDI có xu hướng giảm, như TP Hồ Chí Minh - trung tâm kinh tế của cả nước. Tính từ năm 1988 đến tháng 6/2023, TP Hồ Chí Minh vẫn dẫn đầu cả nước về thu hút nguồn vốn đầu tư từ 117 quốc gia, vùng lãnh thổ với 11.868 dự án FDI còn hiệu lực, tổng vốn đầu tư khoảng 82 tỷ USD. Tuy nhiên, năm 2022, tổng vốn FDI vào địa phương này chỉ đạt hơn 4,33 tỷ USD, giảm gần 40% so với năm 2021.
Tình trạng sụt giảm nói trên đến từ nhiều nguyên nhân. Một trong số đó có thể nói đến là vấn đề về khung khổ pháp lý trong thu hút đầu tư tại Việt Nam chưa tạo được lực hấp dẫn để thu hút dòng vốn FDI chất lượng cao, có sức lan tỏa lớn.
Từ thực trạng trên, có thể thấy rằng, việc huy động nguồn vốn FDI vào ngành điện trong năm 2023 và những năm qua rất hạn chế (chỉ chiếm một lượng rất nhỏ trong tổng vốn FDI tại Việt Nam) và tỷ trọng rất thấp so với nhu cầu vốn cho phát triển dự án theo Quy hoạch điện VIII.
II. Chính sách, khung pháp lý hiện hành về huy động vốn FDI:
1. Khung pháp lý:
Trong những năm vừa qua, cùng với sự thay đổi trong bối cảnh phát triển kinh tế, xã hội, Việt Nam đang chuyển biến cách quản lý kinh tế theo hướng thượng tôn pháp luật và chính sách, ngày càng chuẩn hóa để nâng cao hiệu quả thu hút vốn đầu tư FDI vào Việt Nam. Các quy định pháp luật về đầu tư nói chung và việc thu hút FDI ở Việt Nam hiện đang dần được bổ sung hoàn thiện. Tuy nhiên, nhiều quy định vẫn còn chồng chéo, không nhất quán, chưa theo kịp yêu cầu phát triển.
Cơ sở pháp lý quan trọng nhất cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là Luật Đầu tư và các nghị định, hướng dẫn liên quan. Từ Luật Đầu tư được ban hành ban đầu năm 1987, chúng ta đã chú trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm thu hút vốn FDI luôn bám sát và phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ. Luật Đầu tư đã liên tục được sửa đổi và bổ sung 7 lần vào các năm 1990, 1992, 1996, 2000, 2005, 2014 và 2020.
Hiện nay, cơ sở pháp lý đang áp dụng là Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 có hiệu lực từ ngày 1/1/2021, cùng với Nghị định 31/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư đã tạo ra sức hút nhà đầu tư đến với Việt Nam. So với quy định của Luật đầu tư trước đó, Luật Đầu tư 2020 bổ sung những ngành nghề ưu đãi đầu tư mới như: Sản xuất sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ thuộc danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển giáo dục đại học, sản xuất trang thiết bị y tế… Quy định mới của Luật Đầu tư 2020 về đối tượng hưởng ưu đãi đầu tư được điều chỉnh theo hướng tập trung hơn vào lĩnh vực công nghệ cao, dự án khởi nghiệp sáng tạo. Những thay đổi này mang ý nghĩa rất tích cực trong việc làm rõ và bổ sung các quan điểm, chính sách hợp lý của Việt Nam nhằm thu hút vốn FDI.
Cùng với Luật Đầu tư, việc đầu tư FDI còn được chi phối bởi các luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh nhằm đảm bảo sự đồng bộ để phân định rõ phạm vi điều chỉnh, cũng như nguyên tắc áp dụng của Luật Đầu tư và các luật có liên quan.
Như vậy, ngoài Luật Đầu tư, khung pháp lý chi phối đến hoạt động FDI còn phải kể đến một số luật quan trọng như: Luật Đất đai, Luật Thương mại, Bộ Luật lao động, Luật Quy hoạch, Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở, Luật các tổ chức tín dụng… Tuy nhiên, việc kiểm tra, rà soát những văn bản pháp luật chưa đảm bảo chất lượng, xung đột, chồng chéo cần được điều chỉnh để hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư ở Việt Nam.
Đồng thời, liên quan đến ĐTNN còn được chi phối bởi các khung pháp lý song phương, đa phương - đó là hàng chục hiệp định khuyến khích, bảo hộ đầu tư với các khu vực, các nước và vùng lãnh thổ mà Việt Nam đã tham gia ký kết.
2. Về chính sách:
Với chính sách thu hút FDI, Việt Nam đã chú trọng đến chính sách tăng trưởng xanh được phê duyệt tại Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 1/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ (Phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 202 -2030, tầm nhìn 2050) được triển khai trong tất cả các lĩnh vực giảm cường độ phát thải khí nhà kính và tăng tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa sạch thông qua sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, qua đó thúc đẩy đầu tư phát triển công nghệ cao.
Các ưu đãi chính sách tài chính thu hút FDI có hiệu quả trong thời gian qua là chính sách:
- Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu.
- Ưu đãi về tài chính, đất đai.
Đối với ưu đãi thuế TNDN: Để phục vụ các chiến lược và định hướng chuyển đổi nền kinh tế, hệ thống chính sách về thuế tiếp tục được cải cách lần thứ tư với thay đổi quan trọng nhất là giảm thuế suất thuế phổ thông.
Cụ thể, mức thuế suất phổ thông qua các lần sửa Luật Thuế TNDN theo xu hướng giảm, từ 28% trong giai đoạn 2001-2008 xuống còn 25% trong giai đoạn 2009-2013, 22% trong giai đoạn 2014-2015 và 20% từ ngày 1/1/2016.
Bên cạnh việc giảm thuế suất, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế TNDN năm 2013 (Luật số 32/2013/QH13 ngày 19/6/2013, hiệu lực thi hành từ 1/1/2014) đã bổ sung ưu đãi đối với đầu tư trong khu công nghiệp (trừ khu công nghiệp thuộc địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội thuận lợi) và dự án đầu tư mở rộng; quy định ưu đãi thuế TNDN ở mức cao đối với một số lĩnh vực mũi nhọn cần khuyến khích đầu tư đã góp phần thu hút đầu tư, khuyến khích kinh doanh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tăng tích lũy.
Bên cạnh đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế số 71/2014/QH13 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2015 đã bổ sung một số lĩnh vực, ngành nghề thuộc diện ưu đãi thuế như trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông, lâm, thủy sản; sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ; các dự án sản xuất có quy mô vốn lớn và công nghệ cao.
Theo quy định hiện hành, mức thuế suất ưu đãi cao nhất là 10% trong thời hạn 15 năm và miễn thuế 4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo đối với các dự án đầu tư mới trong một số lĩnh vực đặc thù, khuyến khích phát triển như công nghệ thông tin, phần mềm, năng lượng tái tạo, năng lượng từ việc tiêu hủy chất thải; lĩnh vực bảo vệ môi trường; lĩnh vực sản xuất.
Ngoài ra, các doanh nghiệp (bao gồm cả các doanh nghiệp FDI) còn được hưởng các ưu đãi khác như:
- Được chuyển lỗ sang năm sau, trừ vào thu nhập tính thuế, thời gian không quá 5 năm (kể từ năm tiếp theo năm phát sinh lỗ).
- Cho phép thực hiện khấu hao nhanh.
- Ưu đãi giảm thuế TNDN trong một số lĩnh vực đặc thù để giải quyết các vấn đề xã hội.
Đối với ưu đãi về thuế xuất khẩu, nhập khẩu: Trước năm 2016, các chính sách ưu đãi được thực hiện theo Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu năm 2005. Việc miễn thuế nhập khẩu tiếp tục được duy trì đối với nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để gia công hàng xuất khẩu; máy móc, thiết bị nhập khẩu để tạo tài sản cố định của dự án khuyến khích đầu tư; miễn thuế đối với hàng kinh doanh tạm nhập tái xuất; miễn thuế đối với hàng hóa nhập khẩu chuyên dùng cho nghiên cứu khoa học, giáo dục đào tạo…
Từ năm 2016 đến nay, chính sách ưu đãi được áp dụng theo Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu 2016 (Luật số 107/2016/QH13 ngày 6/4/2016 có hiệu lực từ 1/9/2016). Theo đó, Luật đã bổ sung doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học - công nghệ, tổ chức khoa học - công nghệ được miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được trong thời hạn 5 năm (kể từ khi bắt đầu sản xuất). Bổ sung quy định miễn thuế đối với nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu trong nước chưa sản xuất được để sản xuất, lắp ráp trang thiết bị y tế cần được ưu tiên nghiên cứu, chế tạo.
Một số ưu đãi thuế xuất khẩu, nhập khẩu đang được áp dụng như:
- Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để gia công cho nước ngoài và khi xuất trả sản phẩm cho phía nước ngoài thì được miễn thuế xuất khẩu.
- Hàng hóa nhập khẩu để gia công được miễn thuế, hàng tạm nhập tái xuất và hàng hóa là nguyên liệu vật tư phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu có thể được kéo dài thời gian nộp thuế tới 275 ngày (kể từ ngày mở tờ khai hải quan); hàng hóa tạm nhập tái xuất có thể được kéo dài thời gian nộp thuế tới 15 ngày (kể từ ngày hết hạn).
- Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa để tạo tài sản cố định đối với các dự án đầu tư vào các lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư, lĩnh vực khuyến khích đầu tư và các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn.
Đối với các ưu đãi về đất đai: Trước ngày 30/6/2014, các ưu đãi về đất đai được chia theo hai hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất và thuê đất, áp dụng giảm số tiền phải nộp ở các mức 20%, 30%, 50%, hoặc miễn giảm về thời hạn 7 năm, 11 năm, 15 năm. Từ đầu tháng 7/2014 đến nay, các ưu đãi về đất đai thực hiện theo Luật Đất đai 2013 (Luật số 45/2013/QH13) và các nghị định quy định về thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước. Theo đó, Nhà nước đã thống nhất áp dụng hình thức cho thuê đối với đất sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh, có tính thời hạn và theo từng giai đoạn cụ thể.
Đồng thời, để thu hút đầu tư, tăng cường quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính đất đai tại các khu kinh tế, khu công nghệ cao, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2017/NĐ-CP ngày 3/4/2017 quy định thu tiền sử dụng đất, thu tiền thuê đất, thuê mặt nước trong khu kinh tế, khu công nghệ cao với mức ưu đãi cao hơn các dự án đầu tư thông thường.
Ngoài ra, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách, hỗ trợ về đất đai đối với doanh nghiệp như:
- Giảm 50% tiền thuê đất trong giai đoạn 2011-2014.
- Điều chỉnh giảm tỷ lệ tính đơn giá thuê đất chung từ 1,5% (quy định tại Nghị định số 121/2010/NĐ-CP) xuống còn 1% (quy định tại Nghị định số 46/2014/NĐ-CP) và UBND cấp tỉnh quy định cụ thể tỷ lệ trong khung từ 0,5-3% theo từng khu vực, tuyến đường tương ứng với từng mục đích sử dụng đất để áp dụng thu tiền thuê đất tại địa phương.
- Áp dụng hệ số điều chỉnh giá đất trong việc xác định giá đất để tính thu tiền thuê đất.
Mới đây nhất, Quốc hội đã ban hành Luật đất đai số 31/2024/QH15 ngày 18/1/2024, (có hiệu lực từ ngày 1/1/2025) và Chính phủ cũng đã có Nghị định số 12/2024/NĐ-CP ngày 5/2/2024 sửa đổi Nghị định 44/2024/NĐ-CP quy định vè giá đất và Nghị định 10/2023/NĐ-CP sửa đổi Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai.
NHU CẦU, RÀO CẢN, THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI HUY ĐỘNG VỐN FDI CHO CÁC DỰ ÁN TRONG QUY HOẠCH ĐIỆN VIII:
1. Nhu cầu vốn thực hiện dự án trong Quy hoạch điện VIII và các vướng mắc:
Như chúng ta đã biết, quá trình thực thi Luật Đầu tư 2020 vẫn phát sinh những vướng mắc, bất cập, ảnh hưởng trực tiếp đến đầu tư, sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và công tác quản lý nhà nước về đầu tư. Cụ thể là:
- Pháp luật đất đai và pháp luật đầu tư chưa có quy định thống nhất trong việc quyết định chủ trương thực hiện dự án (đối với dự án ngoài ngân sách) với kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện.
- Vướng mắc về thủ tục đầu tư liên quan tại Khoản 4 Điều 29 Luật Đầu tư quy định và Điều 62 (thu hồi đất để phát triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng).
- Điều 63 (căn cứ thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng) của Luật Đất đai 2013, Luật Đấu thầu.
- Vướng mắc giữa Luật Đầu tư 2020 và Luật Nhà ở liên quan đến chấp thuận chủ trương đầu tư dự án nhà ở.
- Vướng quy định vướng mắc giữa Luật Đầu tư 2020 và Luật Lâm nghiệp liên quan đến chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng.
- Những rào cản liên quan đến thủ tục hành chính, quy định về phòng cháy chữa cháy, môi trường, hải quan.
Ngoài ra, vướng mắc liên quan đến phê duyệt hợp đồng thế chấp tài sản (đối với các hợp đồng mà giá trị dự kiến của tài sản thế chấp vượt quá mức dự án nhóm B theo Luật Đầu tư công, các dự án liên quan đến công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia) làm kéo dài thời gian thu xếp vốn cho các dự án.
Đối với vay vốn ODA ưu đãi nước ngoài, theo quy định tại Nghị định 97/2018/NĐ-CP của Chính phủ về cho vay lại vốn vay ODA/ưu đãi nước ngoài, các dự án phải áp dụng cơ chế cho vay lại chịu rủi ro tín dụng. Do đó, các ngân hàng, tổ chức tín dụng thực hiện cho vay lại chịu rủi ro tới EVN khi gặp vướng mắc liên quan đến giới hạn tín dụng.
Đối với vay vốn có bảo lãnh Chính phủ, Luật Quản lý nợ công năm 2017 quy định đối tượng được cấp bảo lãnh Chính phủ là dự án đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư của Quốc hội, Chính phủ, quyết định đầu tư của Thủ tướng Chính phủ theo quy định của Luật Đầu tư và Luật Đầu tư công.
Do vậy, để được cấp bảo lãnh Chính phủ, các dự án của EVN phải trình Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư, hoặc trình Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư. Đối với vay vốn nước ngoài không có bảo lãnh Chính phủ, tổng mức đầu tư của hầu hết các dự án nguồn điện của EVN đều vượt mức dự án nhóm B nên EVN gặp rất nhiều khó khăn khi thu xếp vốn vay nước ngoài theo phương thức tự vay, tự trả cho các dự án này.
Về nhu cầu đầu tư xây dựng dự án điện:
Tổng hợp các dự án nguồn điện cần thực hiện từ 2024-2030 như bảng sau:
STT | Loại hình dự án | Công suất-MW | Ghi chú |
1 | 4 DA Điện than đang xây dựng | 3.710 | Quảng Trạch 1 (EVN); Vũng Áng 2 (BOT); Long Phú 1 (PVN); Na Dương 2 (TKV) |
2 | 3 DA điện LNG đang xây dựng | 2.824 | Nhơn Trạch 3&4 (PVN); Hiệp Phước GĐ 1 (IPP) |
3 | 12 DA điện khí LNG | 20.900 | Trong đó, có 3 DA chưa chọn chủ đầu tư |
4 | 9 DA điện khí trong nước | 7.420 |
|
5 | 16 DA Thủy điện vừa và lớn | 1.976 | Bao gồm TĐ Hòa Bình MR, Yaly MR và Trị An mở rộng (thuộc EVN) |
6 | Thủy điện nhỏ | 4.462 | IPP |
7 | Thủy điện tích năng | 2.400 | Bao gồm 2 DA Bác Ái và Phước Hòa |
8 | Điện gió trên bờ, gần bờ | 17.894 |
|
9 | Điện gió ngoài khơi | 6.000 | Chưa tính các DA ĐGNK dùng để sản xuất năng lượng mới và xuất khẩu điện (khoảng 15.000 MW) |
10 | ĐMT trang trại nối lưới | 1.500 | Tạm tính |
11 | ĐMT mái nhà | 2.600 |
|
12 | Điện sinh khối | 766 |
|
13 | Điện rác | 1.112 |
|
14 | Điện đồng phát | 1.350 |
|
Hiện nay, các loại hình dự án trong ngành điện có khả năng sử dụng được nguồn vốn FDI có thể là các dự án nguồn điện BOT, các dự án điện khí LNG nhập khẩu và năng lượng tái tạo (điện mặt trời, điện gió trên bờ, điện gió ngoài khơi, điện rác…) và một số dự án sản xuất thiết bị điện này tại Việt Nam (như sản xuất tấm pin mặt trời, sản xuất tua bin điện gió, tháp cột điện gió…).
- Đối với dự án BOT, theo Quy hoạch điện VIII không xuất hiện danh mục các dự án BOT mới, mà chỉ còn các dự án BOT đang triển khai từ Quy hoạch điện VII điều chỉnh.
- Đối với các dự án điện khí LNG: Đây là khối lượng rất lớn, nhưng phần lớn chưa triển khai do vướng một số chính sách như: Lựa chọn nhà đầu tư, quy định về hợp đồng mua bán điện (PPA), chuyển ngang giá khí, bao tiêu sản lượng, chuyển đổi ngoại tệ… nên trở ngại trong huy động vốn FDI (ngay cả các dự án đã có thời gian chuẩn bị khá dài) như điện khí LNG Bạc Liêu, Sơn Mỹ…
- Đối với các các dự án năng lượng tái tạo, những năm 2019-2021 đã phát triển với số lượng lớn (gần 21.000 MW) chiếm tỷ lệ ~ 26% tổng công suất toàn hệ thống. Tuy nhiên, sau quy định về cơ chế giá FIT hết hạn 30/11/2021, do không có quy định mới nên hơn 2 năm qua các dự án năng lượng tái tạo tạm thời trì hoãn chờ quy định mới.
Còn các dự án điện gió ngoài khơi (ĐGNK) là loại hình mới, có tiềm năng phát triển mạnh sau năm 2030, đặc biệt được các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm. Nhưng hiện nay thiếu nhiều quy định, chính sách (như quy hoạch không gian biển, chưa có nội dung thuê mặt nước biển cho năng lượng tái tạo, thẩm quyền giao biển trong Luật Biển; không có quy định về khảo sát, nghiên cứu, xây dựng các dự án ĐGNK trong Luật Tài nguyên, Môi trường biển và Hải đảo 2015, chưa có quy dịnh lựa chọn nhà đầu tư ĐGNK (tiêu chí) trong luật đấu thầu). Vì vậy, khả năng huy động vốn FDI cũng nhiều vướng mắc.
- Các dự án, đầu tư nhà máy sản xuất thiết bị điện (tấm pin mặt trời, tua bin gió, tháp điện gió…) là những dự án thu hút vốn FDI khá thiết thực.
Hiện nay, ngoài việc thị trường dự án trong nước đang vướng mắc về đầu tư, các doanh nghiệp đầu tư còn gặp một số trở ngại khác là công nghiệp hỗ trợ trong nước chưa phát triển (thiếu chính sách khuyến khích công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp hỗ trợ không đáp ứng) nên các nhà sản xuất thường nhập khẩu nguyên vật liệu, linh kiện từ nước ngoài.
Mặt khác, chính sách thuế xuất nhập khẩu có ưu tiên thuế xuất cho linh kiện thiết bị. Tuy nhiên, cơ quan quản lý lại coi các tua bin gió là sản phẩm thiết bị hoàn chỉnh nên không cho doanh nghiệp được hưởng ưu đãi. Cùng với đó, các quy định trong quy định kế toán, yêu cầu hóa đơn chứng từ bản giấy gốc, dịch thuật tiếng Việt… cũng là những trở ngại làm cản trở khuyến khích phát triển và thu hút các doanh nghiệp FDI.
Quy hoạch điện VIII ưu tiên phát triển mạnh các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện. Nguồn điện này sẽ đạt tỷ lệ khoảng 30,9-39,2% vào năm 2030. Định hướng đến năm 2050, tỷ lệ năng lượng tái tạo lên đến 67,5-71,5%.
Tại Báo cáo về Khả năng vay vốn của các dự án năng lượng tái tạo theo Quy hoạch điện VIII, nhóm chuyên gia của FiinRatings và Indochine Counsel đánh giá: Có “khoảng trống tài chính” lớn để đạt được các mục tiêu tham vọng mà Chính phủ đã đề ra. Hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính trong nước không đủ sức cung ứng vốn cho các dự án điện tái tạo vốn dĩ đòi hỏi nguồn vốn dài hạn rất lớn. Do đó, khoảng trống tài chính này sẽ phụ thuộc đáng kể vào việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) và trái phiếu doanh nghiệp, đặc biệt chú trọng đến trái phiếu xanh.
Quy hoạch điện VIII đã được phê duyệt hơn 1 năm nay, nhưng các dự án điện xuất hiện mới trong danh mục vẫn chưa được triển khai, hoặc triển khai rất chậm trễ, vì các cơ quan gặp nhiều lúng túng trong thực hiện Luật Đấu thầu trong việc lựa chọn nhà đầu tư. Tuy nhiên, các văn bản pháp luật vẫn chưa chỉ rõ: Ai sẽ là cơ quan tổ chức đấu thầu? Trong khi các tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư đối với các dự án điện ở mỗi địa phương mỗi khác.
2. Các rào cản và thách thức về chính sách:
Chính sách thu hút vốn FDI của Việt Nam hiện đang tồn tại một số hạn chế. Cụ thể như sau:
- Số lượng các văn bản pháp luật về đầu tư khá nhiều, nằm rải rác trong các luật và văn bản dưới luật. Tình trạng nợ đọng văn bản hướng dẫn các luật còn nặng nề. Thậm chí một số quy định được ban hành, nhưng không đồng bộ và còn chồng chéo, mâu thuẫn, triệt tiêu hiệu lực của nhau.
- Chất lượng một số văn bản quy phạm pháp luật chưa đảm bảo. Các quy định đưa ra thiếu thực tiễn, bất hợp lý mà không có hội đồng thẩm định, phản biện một cách nghiêm túc.
- Nhiều quy định pháp luật, nhất là các thông tư do các bộ, ngành ban hành có tính khả thi thấp, một số cơ sở pháp lý thiếu vững chắc và chưa dựa trên các cơ sở thực tiễn.
- Việc thực thi chính sách còn chậm do vẫn còn tình trạng luật chờ nghị định, thông tư.
- Các văn bản pháp luật về đầu tư không ổn định với sự thay đổi liên tục của chính sách ưu đãi thuế, ưu đãi đất đai, các thủ tục hành chính… khiến doanh nghiệp không dự tính trước được hiệu quả kinh doanh trong trung và dài hạn. Cụ thể là các văn bản pháp luật liên tục được sửa đổi, bổ sung liên quan đến 300 loại giấy phép đầu tư ở Việt Nam, hay Luật ĐTNN, rồi Luật Đầu tư liên tục được sửa đổi (trung bình cứ 4 năm lại có sự thay đổi, hoặc điều chỉnh).
- Hành lang pháp lý cho phát triển kinh tế số, mô hình kinh doanh mới gắn với công nghệ số còn chậm thay đổi. Các quy định và hệ thống vẫn sử dụng các giấy tờ lỗi thời, việc thay đổi bằng các giải pháp công nghệ số/trực tuyến còn chậm và hạn chế.
Việc thu hút FDI của Việt Nam đối diện với một số thách thức, đó là:
- Sự bất ổn kinh tế toàn cầu khiến tình hình phục hồi kinh tế chậm. Các quốc gia Mỹ, Trung Quốc - những đối tác thương mại và nhà đầu tư FDI chính của Việt Nam, được dự báo sẽ tăng trưởng chậm trong những năm tới. Hiện tại, xu hướng đầu tư lân cận (nearshoring) được nhiều quốc gia (Hàn Quốc, Nhật Bản…) hướng tới sau đại dịch Covid-19. Trong khi Mỹ và một số nước EU đều đang cố gắng hạn chế đầu tư ra nước ngoài bằng cách giảm thuế thu nhập doanh nghiệp và ưu đãi đầu tư trong nước để thu hồi vốn đầu tư nước ngoài, thì những xu hướng này làm tăng thêm thách thức cho Việt Nam trong thu hút FDI.
- Việc đề xuất thiết lập mức thuế tối thiểu cho các tập đoàn đa quốc gia trên toàn thế giới nhằm mục tiêu ngăn chặn các tập đoàn đa quốc gia tham gia vào chiến lược lập kế hoạch thuế cực đoan (chuyển dịch lợi nhuận và xói mòn cơ sở thuế để giảm thiểu nghĩa vụ thuế). Mức thuế tối thiểu toàn cầu có thể khác nhau tùy thuộc vào thỏa thuận được đề xuất giữa các quốc gia. Mục tiêu chung là ấn định mức thuế tối thiểu các tập đoàn đa quốc gia phải nộp, bất kể khu vực tập đoàn đa quốc gia hoạt động.
- Các nước láng giềng trong khu vực (Thái Lan, Malaysia) với nguồn lực tốt hơn đã tăng cường thu hút FDI bằng cách giảm thuế, hỗ trợ nhiều hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài, do đó dẫn đến Việt Nam trở thành điểm đến kém hấp dẫn hơn trước.
Thu hút FDI đơn thuần thông qua lao động giá rẻ không phải là giải pháp cho FDI chất lượng. Sự hấp dẫn cần phải dựa trên các khía cạnh khác (cơ sở hạ tầng vững chắc, lao động lành nghề và các yếu tố phi thuế hấp dẫn), chứ không đơn thuần là mức tiền công lao động thấp.
Chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài giai đoạn 2025 - 2030 của Việt Nam là tập trung thu hút các dự án công nghệ cao, công nghệ mới, quản trị hiện đại, giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa tích cực, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
Đối với các dự án điện, ngoài các thách thức chung nêu trên, việc thu hút vốn FDI cho các dự án điện còn có các thách thức sau:
- Quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng khống chế hạn mức tín dụng tối đa cho 1 khách hàng, hoặc 1 nhóm khách hàng (trong khi vốn đầu tư cho 1 dự án điện đều rất lớn). Hàng năm, Ngân hàng Nhà nước đều giới hạn tăng trưởng tín dụng ở mức khoảng 14-15%. Việc giới hạn này nhằm kiểm soát rủi ro và đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng, nhưng nó có thể hạn chế khả năng cung ứng vốn quy mô lớn của các ngân hàng cho những dự án năng lượng tái tạo, thường đòi hỏi bơm vốn đáng kể.
- Tuổi thọ của các dự án năng lượng thường kéo dài hơn 20 năm thời gian hoàn vốn, trong khi các ngân hàng chủ yếu huy động nguồn vốn ngắn hạn nên khó lòng đẩy mạnh cho vay dài hạn. Rủi ro chênh lệch kỳ hạn cũng là một trở ngại khi hệ thống ngân hàng cho vay các dự án năng lượng tái tạo. Các nhà đầu tư dự án năng lượng tái tạo có thể cần trợ giúp để đảm bảo tài chính dài hạn với các điều khoản thuận lợi.
Quy hoạch điện VIII kêu gọi xây dựng cơ chế tài chính để huy động vốn, bao gồm các khoản tín dụng xanh, các khoản vay khí hậu và trái phiếu từ các nguồn trong nước và quốc tế.
3. Các cơ hội:
Bên cạnh những thách thức trên, năm 2024, trong bối cảnh nhiều tập đoàn quốc tế đang muốn chuyển hướng khỏi Trung Quốc, thu hút FDI của Việt Nam có triển vọng, lĩnh vực sản xuất sẽ có nhiều hấp dẫn. Khả năng 80% vốn FDI của Việt Nam sẽ hướng vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp (nhà xưởng, hoặc các dự án hỗ trợ như nhà máy phát điện, hạ tầng kho vận). Lĩnh vực sản xuất sẽ thu hút phần lớn vốn FDI vào Việt Nam bởi các lý do sau:
Thứ nhất: Dựa vào Mô hình Phát triển Đông Á (East Asia Development Model - EADM) mà các nền kinh tế phát triển châu Á đều áp dụng. Mô hình phát triển Đông Á chú trọng sản xuất sản phẩm cho xuất khẩu (như điện thoại, đồ điện tử gia dụng, quần áo), nên đóng góp của lĩnh vực sản xuất vào GDP của các nền kinh tế phát triển châu Á đều trên 30% khi đạt mức cao nhất. Việt Nam hứa hẹn trở thành đối tác quan trọng trong đảm bảo chuỗi cung ứng sản xuất chất bán dẫn đa dạng và linh hoạt.
Thứ hai: Mức đóng góp của lĩnh vực sản xuất vào GDP của Việt Nam hiện vẫn thấp. Đóng góp của lĩnh vực sản xuất vào GDP của Việt Nam hiện dưới mức 25% - cho thấy tiềm năng phát triển trong tương lai của lĩnh vực sản xuất còn rất lớn. Hơn nữa, Việt Nam đang là điểm đầu tư hấp dẫn đối với các tập đoàn sản xuất công nghệ cao. Cùng với Thái Lan và Indonesia, Việt Nam có sự tăng vọt tỷ trọng FDI của Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất. Tập đoàn công nghệ đa quốc gia Apple của Mỹ khẳng định sẽ đưa hoạt động thiết kế sản xuất iPad sang Việt Nam.
Thứ ba: Việt Nam có hai lợi thế khi thu hút vốn FDI vào lĩnh vực sản xuất: (i) Nguồn lao động chất lượng cao với chi phí cạnh tranh và (ii) Mỹ (thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam) đang mở rộng cửa đối với các doanh nghiệp xuất khẩu từ Việt Nam. Khi đó, các tập đoàn xây dựng nhà máy sản xuất tại Việt Nam có thể xuất khẩu sang Mỹ mà không vướng phải rào cản thương mại của Chính phủ Mỹ.
Thứ tư: Dòng vốn FDI vào Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ sự tăng trưởng nhanh nhu cầu tiêu thụ nội địa.
Thứ năm: Đối với các dự án NLTT: Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển lĩnh vực NLTT, chưa được khai thác. Các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm đầu tư vào Việt Nam vì cũng nằm trong chiến lược toàn cầu hướng tới phát thải khí hà kính bằng 0 vào năm 2050.
Thứ sáu: Nhu cầu cung ứng điện của Việt Nam luôn tăng trưởng cao, tạo ra một thị trường thu hút đầu tư rộng rãi để dư địa cho phát triển năng lượng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Cơ hội rất lớn này còn thúc đẩy nhu cầu đào tạo thêm lực lượng kỹ sư để phục vụ cho ngành công nghiệp sản xuất năng lượng công nghệ cao, quy mô lớn. Bên cạnh đó, lo ngại về tác động của việc áp dụng “Thuế tối thiểu toàn cầu” (Global Minimum Tax - GMT) tại Việt Nam năm 2024 có thể ảnh hưởng đến sức hút FDI, bởi việc áp dụng GMT có thể cản trở việc cung cấp các ưu đãi thuế cho nhà đầu tư FDI.
Nhưng ưu đãi thuế không phải là ưu tiên số một để các tập đoàn quốc tế cân nhắc khi quyết định rót vốn FDI, mà còn quan tâm tới rất nhiều yếu tố. Trong đó có chi phí và chất lượng nhân công, chất lượng hạ tầng, độ mở của môi trường kinh doanh. Việt Nam cũng đã tính tới giải pháp hỗ trợ gánh nặng tài chính cho các nhà đầu tư FDI.
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP, CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH PHÙ HỢP CHO VIỆT NAM:
Hoàn thiện các quy định pháp luật:
Để hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm thu hút vốn FDI, chúng tôi khuyến nghị cần tập trung thực hiện các nội dung sau:
Thứ nhất: Chính phủ và Quốc hội cần thành lập 1 Tổ tư vấn pháp lý thống nhất để: Rà soát các luật, nghị định, thông tư về đầu tư và liên quan đầu tư. Trên cơ sở này sửa đổi, hoàn thiện ban hành các quy định pháp luật về đầu tư, kinh doanh và đất đai để khắc phục các khiếm khuyết đã được phát hiện (như thiếu tính hệ thống, sự chồng chéo, không nhất quán giữa các bộ luật, hoặc xung khắc với nhau, luật chờ nghị định, thông tư... nên chậm được thi hành).
Cùng với đó là rà soát lại các văn bản pháp luật về đầu tư nhằm nâng cao chất lượng văn bản, giảm bớt những nội dung không tương thích với luật pháp quốc tế, cập nhật những cam kết quốc tế về mở cửa thị trường, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Thứ hai: Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành dễ hiểu, dễ thực hiện. Các khái niệm phải được xây dựng rõ ràng để tránh việc diễn giải khác nhau gây cản trở đến các hoạt động đầu tư. Quy định rõ ràng, chi tiết, dễ dàng áp dụng các thủ tục và điều kiện đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài để tạo thuận lợi hơn cho nhà đầu tư, đồng thời đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư.
Thứ ba: Xây dựng quan hệ đối tác thực sự (PPD) và sự tin tưởng giữa nhà nước và các lãnh đạo doanh nghiệp thực sự (cả doanh nghiệp sở hữu trong nước, nước ngoài) để cải thiện chất lượng, tăng cường sự ổn định, đồng bộ trong quy định luật pháp.
Mặt khác, ưu tiên việc thực hiện các cải cách quan trọng nhất (bao gồm những cải cách khó khăn) - chính sách mở cửa thị trường thu hút FDI.
Thứ tư: Ổn định chính sách FDI là đòi hỏi chính đáng của nhà đầu tư. Vì vậy, trong trường hợp Chính phủ thay đổi chính sách, thì cần tạo thuận lợi cho họ, hết sức tránh gây tâm lý phản kháng vì làm thiệt hại lợi ích của nhà đầu tư (như đã xảy ra trong lần sửa đổi Luật Đầu tư Nước ngoài năm 1996).
Trong trường hợp bất khả kháng, khi Chính phủ áp dụng chính sách không có lợi cho nhà đầu tư, thì cần thực hiện chính sách “không hồi tố”, hoặc bồi thường thiệt hại do chính sách mới gây ra cho họ.
Thứ năm: Chú trọng nâng cao năng lực phân tích, dự báo của các cơ quan xây dựng, ban hành thể chế chính sách. Kịp thời ban hành các quy định điều chỉnh các quan hệ kinh tế mới, các mô hình, phương thức kinh doanh mới... tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư và hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước.
Đặc biệt với nội dung này, chúng ta không nên/tránh quy chụp trách nhiệm cho các nhà hoạch định chính sách thí điểm, sáng tạo, hoặc khiếm khuyết của những chính sách thúc đẩy các loại hình sản xuất, kinh doanh mới, hoặc công nghệ mới.
Thứ sáu: Đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện hành lang pháp lý cho phát triển kinh tế số, mô hình kinh doanh mới gắn với công nghệ số. Tiếp tục đẩy nhanh hoàn thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện cho việc triển khai, xây dựng phát triển Chính phủ điện tử, hướng đến Chính phủ số và nền kinh tế số ở Việt Nam. Xây dựng cơ chế quản lý linh hoạt, phù hợp với môi trường kinh doanh số, tạo không gian thuận lợi cho đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp sáng tạo. Thay thế các quy định và hệ thống dùng giấy tờ lỗi thời bằng các giải pháp công nghệ số/trực tuyến, nhờ đó mà giảm tham nhũng - vấn đề vốn vẫn bị nhà đầu tư nước ngoài coi là rào cản hàng đầu đối với tăng trưởng.
Giải pháp ngắn hạn, cần tháo gỡ sớm nhất có thể:
Trước mắt, để thu hút được nguồn lực tài chính từ các nhà đầu tư nước ngoài cho các dự án điện, chúng tôi khuyến nghị 5 vấn đề cần được tháo gỡ càng sớm càng tốt. Cụ thể là:
1. Do Quy hoạch điện VIII chưa hướng dẫn cụ thể về cơ chế xác định giá cho các dự án trong quy hoạch, nên việc thiếu một cơ chế định giá minh bạch có thể gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc đánh giá khả năng tài chính của khoản đầu tư các dự án.
Để khắc phục vấn đề này, Chính phủ cần quan tâm sớm ban hành một khung định giá minh bạch, toàn diện, có tính đến chi phí và lợi nhuận tiềm năng của các dự án năng lượng tái tạo.
2. Để có thể huy động vốn FDI vào ngành điện, cần chuẩn hóa, minh bạch theo thông lệ quốc tế về hợp đồng mua bán điện (PPA). Vì đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định chi phí vốn. Trong đó cần lưu ý có cơ chế chia sẻ, phân bổ rủi ro hợp lý, tránh chỉ đẩy rủi ro cho các nhà đầu tư với nguyên tắc “hài hòa lợi ích, chia sẻ rủi ro” trên phương châm “cùng thắng và cùng phát triển”.
3. Xem xét ban hành quy định về các ưu đãi khuyến khích thu hút vốn FDI các dự án ngành điện, chí ít nên áp dụng cho đến năm 2030.
4. Cần khẩn trương hoàn thiện ban hành Nghị định sửa đổi, hoặc thay thế Nghị định 111/2015/NĐ-CP quy định về công nghiệp hỗ trợ để khuyến khich đẩy mạnh công nghiệp hỗ trợ, tăng tỷ lệ nội địa hóa. Vì “nội địa hóa là một trong những yếu tố cốt yếu nằm trong chiến lược kinh doanh của các công ty đa quốc gia” để phát triển lĩnh vực sản xuất linh kiện thiết bị năng lượng trong nước đáp ứng cho các dự án điện tại Việt Nam.
5. Uy tín tín dụng của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) nổi cộm trong thời gian gần đây không chỉ do vấn đề từ hợp đồng mua bán điện (PPA), mà còn do tình hình tài chính thua lỗ trong 2 năm qua của EVN. Vì vậy, khuyến nghị Chính phủ và EVN sẽ sớm thực hiện cải cách, thực hiện các biện pháp tái cơ cấu và nâng cao năng lực quản trị. Việc EVN được xếp hạng tín nhiệm cao ở cả thang xếp hạng quốc tế và trong nước là yếu tố quan trọng giúp tăng khả năng vay vốn cho các dự án điện, cũng như và thu hút nguồn vốn nước ngoài vào ngành điện.
Song song với điểm này, cần thực hiện đúng lộ trình vận hành thị trường điện cạnh tranh. Trong năm 2024, 2025 cần đảm bảo thiết kế các điều kiện cần thiết để chuyển sang thực hiện thí điểm thị trường điện bán lẻ cạnh tranh, dần dần vận hành hoàn chỉnh thị trường điện, tạo ổn định cho việc huy động vốn cho các dự án điện trong Quy hoạch điện VIII./.
NGUYỄN THÁI SƠN - HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM
Tài liệu tham khảo:
- VAFIE: Báo cáo thường niên 2024 về đầu tư nước ngoài tại Việt Nam _ Trước thách thức và cơ hội mới- Thu hút FDI chất lượng hơn, hiệu quả hơn._ GS.TS Nguyễn Mại
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2023 và triển vọng năm 2024_ Trang điện tử Ngân hang Nhà nước Việt Nam, ngày 20/02/2024.
https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/fm/ddnhnn/nctd/nctd_chitiet?
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam - Lê Như Quỳnh - Trường Đại học Thương mại. 16:42 26/01/2023; https://tapchitaichinh.vn/hoan-thien-he-thong-phap-luat-nham-thu-hut-von-dau-tu-truc-tiep-nuoc-ngoai-vao-viet-nam.html
- Xoay sở 135 tỷ USD cho Quy hoạch điện VIII bằng cách nào_ Vneconomy online 17:23 28/06/2023; https://vneconomy.vn/xoay-xo-135-ty-usd-cho-quy-hoach-dien-viii-bang-cach-nao.htm
- Hoàn thiện khung pháp lý để thu hút vốn FDI; Báo Nhân dân online_ Thứ hai, ngày 17/07/2023 - 21:58 - https://nhandan.vn/hoan-thien-khung-phap-ly-de-thu-hut-von-fdi-post762750.html