RSS Feed for Ba nguyên tắc giải quyết các bất đồng còn lại để phát triển nguồn điện khí quy mô lớn ở Việt Nam | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ năm 25/12/2025 09:41
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Ba nguyên tắc giải quyết các bất đồng còn lại để phát triển nguồn điện khí quy mô lớn ở Việt Nam

 - Trước những khó khăn, thách thức, cũng như chưa tìm được tiếng nói chung trong đầu tư phát triển các dự án nhiệt điện sử dụng khí trong nước và LNG nhập khẩu, mới đây, các nhà đầu tư trong lĩnh vực này đã kiến nghị tới Thủ tướng Chính phủ ba nguyên tắc chính để giải quyết các bất đồng còn lại. Cụ thể là: (1) Phân bổ rủi ro hợp lý và công bằng; (2) Hai kiến nghị chính để tháo gỡ vướng mắc; (3) Giải quyết các vấn đề về khả năng thu xếp vốn khác. (Tổng hợp và một số nhận xét của chuyên gia Tạp chí Năng lượng Việt Nam).
Tác động của Nghị quyết Quốc hội đến ngành năng lượng và gợi ý triển khai các bước tiếp theo Tác động của Nghị quyết Quốc hội đến ngành năng lượng và gợi ý triển khai các bước tiếp theo

Tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá XV (ngày 11/12/2025), Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về các cơ chế, chính sách phát triển năng lượng quốc gia (giai đoạn 20262030) nhằm tháo gỡ những điểm nghẽn kéo dài trong quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, lựa chọn nhà đầu tư phát triển các dự án năng lượng. Nhân sự kiện này, Hội đồng Khoa học Tạp chí Năng lượng Việt Nam có bài báo phân tích các tác động của thể chế mới đối với thị trường điện, tiến trình chuyển dịch năng lượng; đồng thời khuyến nghị, gợi ý những nội dung về cơ chế, chính sách mà Chính phủ cần ban hành để sớm đưa Nghị quyết đi vào cuộc sống.

Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh dự tính công suất nhiệt điện chạy khí trong nước và LNG nhập khẩu vào năm 2030 sẽ lên tới 38,8 GW từ mức 7,1 GW năm 2021. Đây là mức tăng trưởng rất lớn, cần rất nhiều vốn đầu tư mà các nguồn tài chính trong nước không thể cung cấp đủ. Các nhà đầu tư tư nhân và nước ngoài có vai trò rất lớn trong việc đầu tư vào điện khí để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia; đồng thời cung cấp nguồn điện ổn định và linh hoạt trong giai đoạn chuyển tiếp đến phát thải ròng bằng 0.

Hiện tại mới chỉ có điện khí LNG Nhơn Trạch 3 và 4 của Tập đoàn Công nghiệp Năng lượng Quốc gia Việt Nam (PVN) với công suất 1.624 MW được đưa vào vận hành, 1 nhà máy của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đang chuyển từ đốt dầu sang đốt khí trong nước và 1 dự án nhà máy điện khí trong nước của PVN đã khởi công; các nhà máy điện khí trong nước và LNG nhập khẩu khác đang trong quá trình đang đàm phán và gặp phải những trở ngại lớn để các dự án điện khí đó có thể phát triển theo tiến độ kỳ vọng vào năm 2030.

Sau khi Luật Điện lực số 61/2024 được ban hành, mặc dù Bộ Công Thương cũng đã nhanh chóng và nỗ lực chủ trì tham mưu Chính phủ ban hành các Nghị định và ban hành các Thông tư hướng dẫn Luật. Theo đó, EVN đã rất cố gắng trong khuôn khổ luật pháp khi đàm phán với các nhà đầu tư dự án điện khí, nhưng vẫn có những vướng mắc chưa thể giải quyết ở cấp EVN, hay Bộ Công Thương. Việc tiếp tục cải tiến cơ chế, chính sách xuất phát từ thực tiễn, theo định hướng của Nghị quyết 70-NQ/TW của Bộ Chính trị là hết sức cần thiết để khơi thông nguồn vốn cho các dự án đã được Chính phủ xếp vào danh mục các dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành năng lượng.

Các thành viên Cộng đồng Phát thải bằng 0 châu Á (AZEC) bao gồm Tập đoàn Marubeni, Công ty Tokyo Gas, Tập đoàn Kyuden International, Tập đoàn Sumitomo và Công ty JERA (sau đây gọi chung là “các nhà đầu tư dự án điện khí”) tiếp tục gửi văn bản tới Chính phủ “kiến nghị chung để tháo gỡ vướng mắc trong việc phát triển các dự án điện khí/điện LNG quy mô lớn”.

Trong thư kiến nghị mới đề ngày 8/12/2025, các nhà đầu tư dự án điện khí kiến nghị ba nguyên tắc chính để giải quyết các bất đồng còn lại như sau:

Nguyên tắc 1 - Phân bổ rủi ro hợp lý và công bằng:

Các nhà đầu tự dự án điện khí đồng ý rằng: EVN, với vai trò bên mua điện, không thể gánh chịu những rủi ro nằm ngoài phạm vi trách nhiệm và thẩm quyền của EVN. Cũng tương tự như vậy, các nhà đầu tư và các bên cho vay cũng không thể gánh chịu những rủi ro mà họ không có quyền kiểm soát. Do đó, cần có một cơ chế hợp lý, công bằng, hoặc văn bản pháp lý ở cấp Chính phủ thể hiện rõ việc phân bổ rủi ro và cơ chế bảo vệ cho các dự án.

Một trong những vấn đề pháp lý là kể từ khi Công ty Vận hành Hệ thống điện và Thị trường điện Quốc gia (NSMO) được tách ra khỏi EVN, đã xuất hiện một khoảng trống rõ rệt và đáng kể liên quan đến việc “phân bổ rủi ro” đối với các hoạt động điều độ điện trong hợp đồng mua bán điện. Việc tái cơ cấu cơ quan này chưa được phản ánh phù hợp trong các điều khoản chính của hợp đồng mua bán điện, cũng như trong các thông tư liên quan.

Để đảm bảo nguyên tắc phân bổ rủi ro hợp lý và công bằng, bất kỳ khoảng trống nào trong khung pháp lý hiện hành để hiện thực hóa nguyên tắc này cần được bổ sung, hoàn thiện thông qua việc ban hành mới, hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan.

Nguyên tắc 2 - Hai kiến nghị chính để tháo gỡ vướng mắc:

1. Cơ chế thanh toán khoản bảo đảm dự phòng và thu hồi chi phí bao tiêu nhiên liệu:

Phương án tăng sản lượng điện hợp đồng (Qc) đi kèm với cam kết về sản lượng phát điện thực tế khả thi và thuận lợi cho các nhà đầu tư, nhưng có thể tạo ra gánh nặng tài chính lớn cho EVN. Do đó, cần tách bạch trong Qc phần chi phí cố định (chủ yếu bao gồm tổng mức đầu tư, chi phí vận hành, bảo dưỡng cố định… chiếm khoảng 20% tổng giá điện) và phần chi phí biến đổi (chủ yếu là chi phí mua nhiên liệu… chiếm khoảng 80% tổng giá điện).

Các nhà đầu tư đề xuất cơ chế thanh toán Khoản bảo đảm dự phòng chỉ nhằm trao cho Dự án quyền yêu cầu thanh toán dự phòng có điều kiện, phòng ngừa trường hợp tổng sản lượng điện được huy động không đạt đến mức đã thỏa thuận trước. Mục đích khoản thanh toán này là để dự án có thể thu hồi chi phí ở mức tối thiểu cần thiết nhằm duy trì hoạt động của Công ty dự án; đồng thời thực hiện nghĩa vụ bao tiêu nhiên liệu. Cơ chế này giảm gánh nặng và tăng tính linh hoạt cho EVN, NSMO trong suốt giai đoạn vận hành.

2. Thỏa thuận Khung:

Cần có một văn bản riêng để quy định cách thức xử lý các sự kiện nằm ngoài thẩm quyền và phạm vi trách nhiệm của EVN, bên cạnh Hợp đồng mua bán điện. Văn bản đó sẽ hiện thực hóa “Nguyên tắc 1 - Phân bổ rủi ro hợp lý và công bằng đối với toàn bộ các dự án”.

Nguyên tắc 3 - Các vấn đề về khả năng thu xếp vốn khác:

Trong nhiều năm qua, các bên đã và đang trao đổi về 12 vấn đề chính liên quan đến khả năng thu xếp vốn đã được trình bày tại Văn bản của AZEC ngày 14/10/2025. Quan điểm của Bộ Công Thương nhìn nhận rằng: 12 vấn đề này là “bảo vệ nhà đầu tư và bên cho vay quá mức”. Lần này, dù vẫn tin rằng “12 vấn đề đã nêu là hợp lý”, các nhà đầu tư dự án điện khí sẵn sàng xem xét một số linh hoạt đối với một số nội dung (của 12 vấn đề) với điều kiện là 2 kiến nghị nêu trong “Nguyên tắc 2” cũng sẽ được Chính phủ Việt Nam cân nhắc một cách thấu đáo đủ để bảo đảm tính khả thi thu xếp vốn.

Nhận xét:

Hiện nay thị trường điện Việt Nạm đang trên lộ trình tiến tới thị trường cạnh tranh hoàn chỉnh và tái cấu trúc, nên việc tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp lý, cơ chế sau khi tách NSMO ra khỏi EVN để thống nhất giữa nguyên tắc kỹ thuật huy động công suất và sản lượng cam kết theo Hợp đồng mua bán điện là việc cần thiết (dù có yêu cầu của các nhà đầu tư dự án điện khí hay không).

Các nhà đầu tư dự án điện khí yêu cầu được đảm bảo thanh toán chi phí công suất, mà họ gọi là “bảo đảm dự phòng” cùng một khoản bảo đảm bao tiêu nhiên liệu khi không được huy động sản lượng điện theo hợp đồng đã ký.

Yêu cầu này cho thấy: EVN cần đẩy nhanh công tác áp dụng giá điện hai thành phần, đầu tiên là về phía hộ mua điện, sau đó là với bên bán điện. Khi đó thì mọi nhà máy điện khí sẽ được đảm bảo thanh toán một khoản tiền do họ “bảo đảm dự phòng” cho hệ thống trong trường hợp không huy động hết công suất theo Hợp đồng mua bán điện. Vấn đề giá điện hai thành phần cũng đã được nêu trong Luật Điện lực và cần được triển khai sớm. Đây cũng là giải pháp quan trọng để thu hồi vốn đầu tư rất lớn ban đầu mà chủ đầu tư đã bỏ ra.

Thỏa thuận Khung bên cạnh Hợp đồng mua bán điện là một điều mới, một đề xuất nhằm giải quyết những vấn đề có thể xảy ra nằm ngoài thẩm quyền của hai bên ký Hợp đồng mua bán điện. Nhưng hiện chưa rõ cơ quan nào sẽ ký “Thỏa thuận Khung” này và liệu nó có được áp dụng cho tất cả các dự án điện khí hay không. Do vậy, Thỏa thuận Khung này cần có chỉ đạo của Chính phủ cho phép Bộ Công Thương chủ trì và các bộ, ngành liên quan xem xét như là một giải pháp bảo đảm đầu tư được nêu trong Luật Đầu tư và cũng là chính sách thu hút đầu tư ngành điện trong từng thời kỳ nhất là với các dự án mang tính đặc thù, trọng điểm quốc gia.

Cuối cùng, việc xem xét thấu đáo, cụ thể đề xuất của các nhà đầu tư ở trên cũng như qua các cuộc họp thảo luận đối thoại chính sách, sớm đưa ra giải pháp tháo gỡ mang tính thực tiễn là hết sức cần thiết để khơi thông dòng vốn, đảm bảo an ninh cung cấp điện, đặc biệt là đến năm 2030 và cam kết phát thải ròng bằng 0 của Việt Nam trong dài hạn./.

ĐÀO NHẬT ĐÌNH - CHUYÊN GIA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Có thể bạn quan tâm

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động