Ngành Than trước áp lực thuế, phí tăng cao
21:27 | 19/04/2016
5 giải pháp phát triển bền vững ngành Than
Nhiều khó khăn do thuế, phí tăng
Theo văn bản của TKV: trong các năm qua, ngành than gặp nhiều khó khăn, bởi nhu cầu năng lượng cũng như giá than trên thị trường thế giới đều giảm, trong đó giá than giảm trên 30%. Trong khi đó, các loại thuế, phí lại tăng cao, cụ thể: các loại thuế phí tăng cao, chiếm khoảng 15%, gồm: Thuế tài nguyên bình quân 10%; phí môi trường và thuế môi trường khoảng 2,5%; tiền cấp quyền khai thác 2%; các loại thuế, phí khác 0,5%. Ngoài ra, than trong nước còn chịu 10% thuế giá trị gia tăng.
Ngoài ra, theo Nghị quyết của Thường vụ Quốc hội, thuế tài nguyên sẽ tiếp tục tăng thêm từ ngày 1/7/2016. Theo đó, than khai thác lộ thiên sẽ tăng thêm 12% và than khai thác hầm lò 10%. Điều này làm tăng chi phí phải nộp lên khoảng 1.200 tỉ mỗi năm.
Đối với than xuất khẩu, TKV cho biết, tổng số thuế bằng 35% giá thành tấn than. Đơn giá tính thuế tài nguyên, phí môi trường, phí cấp quyền khai thác cũng liên tục được điều chỉnh theo hướng ngày càng tăng.
Dự kiến, tới đây Chính phủ sẽ còn ra nghị định hướng dẫn cách tính phí môi trường mới, theo đó sẽ tính cả lượng đất đá thải ra khiến TKV sẽ phải nộp thêm khoảng 70 tỉ/năm.
Với mức tính thuế như trên, 6 tháng cuối năm 2016, TKV sẽ phải nộp thuế tài nguyên than tăng thêm 731 tỉ đồng và từ năm 2017, con số sẽ tăng lên 15.000 tỉ đồng mỗi năm.
Theo TKV, thuế tài nguyên của các nước trên thế giới, hiện nay Australia đang áp thuế 5 - 7%; Trung Quốc từ 2 - 10% và đang tạm thời bỏ nhiều loại thuế phí khác. Như vậy, mức thuế tài nguyên đối với ngành than Việt Nam hiện nay đang ở mức rất cao, lợi nhuận giảm, doanh nghiệp không đủ vốn để đầu tư phát triển, việc cải thiện thu nhập và đời sống công nhân mỏ còn hạn chế, không khuyến khích khai thác tận thu tài nguyên...
Mục tiêu phát triển bền vững
TKV cho biết, từ đầu năm đến nay, TKV chưa xuất khẩu một tấn than nào do vẫn đang chờ chỉ đạo của Chính phủ về việc cho phép tiếp tục xuất khẩu than.
Theo TKV, năm 2015, TKV xuất khẩu 1,2 triệu tấn chủ yếu sang Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Indonesia và các nước Tây Âu.
Năm 2015, TKV cũng nhập khẩu 460 nghìn tấn than các loại từ Nam Phi, Úc và Nga để cung cấp cho các đơn vị chế biến kinh doanh than trong Tập đoàn để tiêu thụ và pha trộn với than trong nước cấp cho các hộ sử dụng.
Dự báo về tình hình sử dụng than trong nước, theo Quy hoạch phát triển ngành than Việt Nam đã được Thủ tướng phê duyệt, năm 2016 than thương phẩm đạt 41 - 44 triệu tấn và dự kiến đến năm 2020 đạt 47 - 50 triệu tấn; năm 2025 đạt 51 - 54 triệu tấn và 55 - 57 triệu tấn vào năm 2030.
Hiện nay, các nhà máy nhiệt điện trong nước chủ yếu sử dụng than antraxit Việt Nam. Tuy nhiên, với nhu cầu than tăng mạnh của các nhà máy nhiệt điện, nguồn than này trong nước không đủ để cung ứng nên các nhà máy nhiệt điện xây dựng theo quy hoạch phải chuyển sang sử dụng than nhập khẩu...
Theo dự báo về nhu cầu sử dụng than trong nước năm 2016 là 47,5 triệu tấn, năm 2020 là 86,5 triệu tấn, năm 2025 là 121,5 triệu tấn và năm 2030 là 156,6 triệu tấn. Theo đó, khối lượng than nhập khẩu phải tương ứng với sản lượng thiếu hụt nêu trên. Cụ thể, năm 2016 là 6,5 triệu tấn, năm 2020 là 36,4 triệu tấn, năm 2025 là 67 triệu tấn và năm 2030 gần 100 triệu tấn.
Trên cơ sở nhu cầu và khả năng sản xuất trong nước, TKV đã xây dựng kế hoạch nhập khẩu than giai đoạn từ năm 2016 - 2020 như sau: Năm 2016 nhập khẩu 2 triệu tấn, năm 2017 nhập 5 - 6 triệu tấn, năm 2018 nhập 10 - 15 triệu tấn, năm 2019 nhập 15 - 18 triệu tấn và năm 2020 nhập 18 - 20 triệu tấn.
TKV khẳng định mục tiêu phát triển ngành than Việt Nam là trở thành ngành công nghiệp phát triển, có sức cạnh tranh cao, sản xuất và tiêu thụ than đảm bảo bền vững đáp ứng lâu dài cho nhu cầu sử dụng trong nước, đặc biệt là than cho sản xuất điện.
NangluongVietnam Online