RSS Feed for Đông Nam Á đối phó giá dầu thấp và kiến nghị cho trường hợp Việt Nam | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ hai 23/12/2024 09:12
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Đông Nam Á đối phó giá dầu thấp và kiến nghị cho trường hợp Việt Nam

 - Để đối phó với "giá dầu thấp" mỗi quốc gia đều có những giải pháp cho riêng mình. Chẳng hạn, Chính phủ Malaysia (nước xuất khẩu dầu ròng) họ cắt giảm chi phí quản lý, giảm chỉ tiêu tăng trưởng GDP, phá giá đồng Rigit, nâng mức thâm hụt ngân sách nhà nước. Mặt khác, giảm trợ cấp giá xăng dầu cho người tiêu dùng, tăng hỗ trợ vốn và giảm những ràng buộc pháp lý gây khó khăn cho hoạt động của các ngành sản xuất hàng hóa... Với Indonesia (nước nhập khẩu dầu ròng) - tận dụng từ giá dầu rẻ, quốc gia này đã tiết kiệm được 8 tỷ USD tiền nhập khẩu xăng và đã giảm được 1/3 số tiền trợ cấp nhiên liệu cho người dân theo chính sách năng lượng nội địa, vv... Còn với Việt Nam - nước nhập khẩu dầu ròng, các sản phẩm dầu cao hơn nhiều so với giá trị dầu thô xuất khẩu thực có, vì vậy, theo chúng tôi nên học tập kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng, thực thi chính sách năng lượng, cũng như trong đầu tư phát triển dầu khí quốc gia là rất cần thiết và trong điều kiện của Việt Nam thì chúng ta càng không nên là một ngoại lệ.

TS. TRẦN NGỌC TOẢN [*]

Đông Nam Á là khu vực phát triển kinh tế sôi động nhất trên thế giới, nhưng trữ lượng tài nguyên dầu khí của vùng này lại khá khiêm tốn trong tổng trữ lượng xác minh của toàn thế giới tính đến thời điểm hiện nay. Do vậy, nhìn tổng thể cả khu vực rộng lớn này nằm trong khối nhập khẩu dầu ròng và sẽ là nơi phụ thuộc nhiều nhất vào nguồn cung của các nước ngoài khu vực [hình 1a, 1b dưới đây]. Theo nhìn nhận của chúng tôi, tác động của giá dầu thấp hiện nay lên nền kinh tế phụ thuộc vào tương quan của vai trò và vị trí mỗi nước trong sở hữu tài nguyên dầu khí và tầm vóc của ngành công nghiệp dầu khí, cũng như mức tiêu thụ dầu khí của họ. Vì thế tác động này giữa nhóm các nước "xuất khẩu dầu ròng" và "nhập khẩu dầu ròng" ở Đông Nam Á rất khác nhau.

Hình 1 a: Sản lượng và nhu cầu dầu thô của các nước ASEAN năm 2013.

Hình 1b: Xuất/nhập khẩu dầu - khí so với tổng xuất nhập khẩu của ASEAN năm 2013.

CÁC QUỐC GIA XUẤT KHẨU DẦU RÒNG

Malaysia

Malaysia là nước xuất khẩu dầu ròng và là nước sản xuất dầu - khí lớn thứ 2 ở Đông Nam Á (sau Indonesia) nên tác động giá dầu thấp mang lại nhiều ảnh hưởng tiêu cực cho Petronas và một phần đối với nền kinh tế Malaysia nói chung. Thu nhập từ xuất khẩu chiếm đến 73% GDP, trong đó 22% từ xuất khẩu khí đốt, 8% từ sản phẩm lọc - hóa dầu và 5% từ dầu thô.

Về mặt nhà nước, để đối phó tác động giá dầu thấp, Chính phủ Malaysia cắt giảm chi tiêu quản lý 2%/năm, giảm chỉ tiêu tăng trưởng GDP từ mức 6%/năm xuống còn 5-5,5%/năm, phá giá đồng Rigit 4% so với đô la Mỹ, nâng mức thâm hụt ngân sách nhà nước lên 3,2% GDP. Cạnh đó Malaysiagiảm trợ cấp giá xăng dầu cho người tiêu dùng, tăng hỗ trợ vốn và giảm những ràng buộc pháp lý gây khó khăn cho hoạt động của các ngành sản xuất hàng hóa và ưu tiên đầu tư cho phát triển khoa học - công nghệ, đào tạo nhân lực chất lượng cao, cơ sở hạ tầng, tăng dịch vụ công cũng như nâng cao mức sống của người dân để giảm xung đột sắc tộc, tôn giáo, bất ổn xã hội, qua đó giảm chi tiêu ngân sách giành cho an ninh quốc nội.

Trong các giải pháp được Petronas áp dụng trong xử lý tác động của giá dầu thấp giống như các tập đoàn dầu khí khác [1,2]. Kết quả trong giải pháp ưu tiên vào phát triển khoa học - công nghệ dầu khí hiện đại để gia tăng giá trị dịch vụ của mình ở trong nước và ở nước ngoài, cũng như cho hoạt động xuất khẩu. Trong đó, nổi bật nhất là Petronas đã thiết kế thành công và sản xuất lần đầu tiên trên thế giới thiết bị hóa lỏng khí đốt nổi (PFLNG Satu), vượt trước hơn một năm so với con tàu Prelude của Shell có công suất cao gấp 3 lần [2].

Thiết bị nổi cùng loại thứ hai, công suất 1,5 triệu tấn/năm (đang được đóng), có thể sẽ xuất xưởng vào năm 2018-2019, mang thương hiệu Malaysia sẽ phục vụ khai thác các mỏ khí biển ở các vùng xa xôi, hẻo lánh trong nước lẫn ở nước ngoài. Khi đi vào hoạt động, thiết bị này sẽ giúp Petronastránh được việc phải xây dựng các đường ống dẫn khí ngầm dưới biển vừa tốn kém, vừa rất mất nhiều thời gian, làm cho giá thành khai thác khí cao - nhất là các mỏ không có trữ lượng lớn.

Petronas cũng rất mạnh dạn đầu tư vào công nghệ vùng nước sâu ở Malaysia với tư cách là đối tác của ExxonMobil trong chương trình liên doanh tăng cường thu hồi dầu (EOR) lớn nhất ở Đông Nam Á, có vốn 2,5 tỷ USD tại đề án Tapis, thềm lục địa Terengganu.

Petronas cũng là một trong những tổ chức sản xuất và kinh doanh LNG lớn nhất thế giới.

Là một tập đoàn quốc gia hạng trung bình với vốn đầu tư lần đầu tiên ra nước ngoài chưa đến 300 triệu USD, được chính phủ cho phép quản lý tự chủ, chịu trách nhiệm nộp thuế và nghĩa vụ cho nhà nước theo luật pháp, không chịu trách nhiệm về rủi ro bất khả kháng, hoặc không do tự mình gây ra trong việc sử dụng khoản tiền lớn được ngân sách nhà nước cấp này. Hiện nay Petronas thăm dò - khai thác dầu khí trên 20 nước, vốn đầu tư trong lĩnh vực này chiếm đến một nửa vốn đầu tư của toàn tập đoàn và có khá nhiều kinh nghiệm trong hoạt động thương mại LNG toàn cầu, cung cấp hơn 90 chuyến hàng (cargo) cho 20 nước. Các hoạt động hạ nguồn cũng được triển khai trên 40 nước.

Về trữ lượng, hiện tại Petronas quản lý 23,2 tỷ thùng dầu quy đổi (boe) trong nước so với 10 tỷ boe thuộc sở hữu của họ ở nước ngoài. Điều đó cho thấy, hoạt động tìm kiếm - thăm dò - khai thác của tập đoàn này dựa chủ yếu vào trữ lượng dầu khí nội địa. Sản lượng khí đốt trong nước tương đối dồi dào giúp Petronas đứng thứ ba trong lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu LNG thế giới (sau Qatar và Australia).

Trong nước, Petronas đang là công ty điều hành, hoặc góp vốn của 198 mỏ đang khai thác, 155 giàn khoan trên thềm lục địa trong 101 hợp đồng phân chia sản phẩm (PSC) và 6 hợp đồng phân chia rủi ro. Tổng công suất tổng hợp của 9 dây chuyền sản xuất tại các liên hợp LNG của Malaysia lên gần 30 triệu tấn/năm.

Ngoài ra Petronas còn có 27,5% cổ phần trong các nhà máy LNG, công suất 7,8 triệu tấn/năm, sử dụng khí than làm nguyên liệu ở Australia. Tài sản dầu khí của Petronas ở Australia và ở một số nước tương đối ổn định về kinh tế và chính trị cũng là một giải pháp giúp cắt giảm rủi ro địa chính trị cho các tài sản của tập đoàn ở nước ngoài và cho doanh thu chiếm gần 1/5 doanh thu năm 2015 từ LNG của Petronas.

Tuy đã hạn chế được nhiều tác động tiêu cực của giá dầu thấp, nhưng là một nước xuất khẩu dầu khí nên thiệt hại của Petronas không hề nhỏ. Riêng quý II/2016, lợi nhuận của tập đoàn giảm 85% xuống còn 1,62 tỷ RM (Rigit Malaysia, tương đương 402 triệu USD) từ mức 11,07 tỷ RM của quý II/2015. Doanh thu giảm 21% so với cùng kỳ năm trước, còn 48,4 tỷ RM. Nộp các loại nghĩa vụ giảm mạnh, chỉ còn 7,16 tỷ RM. Lãi sau thuế các hoạt động thượng nguồn cả năm 2016 giảm còn 3,7 tỷ MR, từ mức 6,17 tỷ RM năm trước, còn lãi sau thuế của các hoạt động hạ nguồn đạt 2,26 tỷ RM, từ mức 3,29 tỷ RM của năm 2015.

Tình hình sản xuất, kinh doanh của Petronas năm 2017 cũng không sáng sủa gì nhiều so với năm 2016 vì giá dầu thô, cũng như sản phẩm dầu được tăng rất ít và rất chậm.

Đứng trước bối cảnh ấy, Petronas tiếp tục cải tiến tổ chức, giảm biên chế, nhất là trong đội ngũ quản lý (năm 2016 lãnh đạo tập đoàn chỉ còn 1 tổng giám đốc và 2 phó tổng giám đốc). Mặt khác,Petronas giản tiến độ, hoãn, cắt bỏ các đề án ít, hoặc không có khả năng mang lại lợi nhuận, tập trung vốn cho đầu tư phát triển công nghệ cao và các đề án được chọn lọc có lãi lớn - nhất là trong các hoạt động trung nguồn, hạ nguồn.

Trong giai đoạn giá dầu dưới 50 USD/thùng, Petronas đã cắt chi phí đầu tư và chi phí điều hành đến gần 30%.

Brunei

Brunei là một nước nhỏ, dân số năm 2016 gần 436.620 người, GDP đạt 79.700 USD/người, nguồn thu dựa chính vào xuất khẩu dầu thô, LNG. Sản lượng dầu của quốc gia này khoảng 180.000 thùng/ngày và là nước sản xuất LNG đứng thứ 4 trên thế giới. Tỷ lệ giữa giá trị nhập khẩu, xuất khẩu dầu khí giao động trong khoảng 10-15%.

Năm 2013 kim ngạch xuất khẩu dầu thô chiếm 31% và khí hóa lỏng LNG chiếm 37%GDP nên nguồn thu (thuế, phí các loại, phần lãi được chia, lãi cổ tức) của Brunei bị thiệt hại nặng nề khi giá dầu xuống thấp.

Công ty dầu khí quốc gia Brunei không làm nhiệm vụ sản xuất mà chỉ là một tổ chức quản lý các hoạt động dầu khí do các công ty nước ngoài tiến hành dưới dạng liên doanh, hoặc hợp đồng PSC (phân chia sản phẩm). Vấn đề giải quyết tác động tiêu cực của khủng hoảng giá dầu đối với Brunei chỉ là cách sử dụng tối ưu nguồn thu từ dầu cho nền kinh tế. Chẳng hạn như xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp xây dựng, du lịch, dịch vụ, đầu tư tài chính ra nước ngoài, vv... và giải quyết các vấn đề xã hội khi đời sống nhân dân không giữ được mức cao như trước.

CÁC QUỐC GIA NHẬP KHẨU DẦU RÒNG

Indonesia

Là một nước đông dân, trình độ dân trí và mức độ phát triển kinh tế ở các địa phương rất khác nhau nên tác động của giá dầu thấp đối với từng vùng, từng ngành kinh tế cụ thể cũng rất khác nhau.

Đối với những đảo có công nghiệp khai thác dầu khí phát triển thì tác động tiêu cực của giá dầu thấp rất rõ vì nguồn thu ngân sách không chỉ của chính phủ mà cả của địa phương cũng giảm mạnh, ảnh hưởng đến tốc độ và quy mô đầu tư cho các công trình công ích, các cơ sở hạ tầng, nhiều đề án bị giãn tiến độ, hoặc bị hủy bỏ. Do vậy, tỷ lệ thất nghiệp tăng đột ngột, các công ty, hoặc hộ dịch vụ cho các hoạt động dầu khí - nhất là dịch vụ đời sống mất khách hàng, lợi thế hấp dẫn đầu tư nước ngoài vào địa phương suy yếu. Hệ lụy là đời sống cư dân khó khăn do thu nhập thấp càng tạo môi trường thuận lợi cho các thế lực hồi giáo cực đoan hoạt động, tạo ra nhiều biến động xã hội phức tạp.

Đối với các địa phương có các ngành sản xuất hàng hóa tiêu dùng, xuất khẩu tiêu thụ nhiều năng lượng lại hưởng lợi nhờ giá thành sản phẩm giảm tỷ lệ với mức suy giảm giá nhiên liệu trên thị trường, giúp giá thành thấp, có sức cạnh tranh cao hơn trước.

Theo Financial Times, nhờ giá dầu rẻ, Indonesia từ nhiều năm nay tuy không còn là nước thành viên đầy đủ của OPEC đã tiết kiệm được 8 tỷ USD tiền nhập khẩu xăng và đã giảm được 1/3 số tiền trợ cấp nhiên liệu cho người dân theo chính sách năng lượng nội địa. Số tiền nói trên đã giúp gia tăng 1,1% GDP năm 2014 và năm 2015 là 1,5-2%. Lạm phát tính đến cuối năm 2014 đã giảm từ 8% xuống còn 1,5%.

Hội Dầu khí Indonesia cho biết, các tổ chức dầu khí Indonesia phải giảm chi phí đầu tư đến 20%/ năm trong giai đoạn giá dầu thấp dưới mức 40 USD/thùng, riêng Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Pertamina có thế cắt giảm vốn đầu tư đến một nửa do thiếu ngân sách.

"Cũng do giá dầu xuống thấp nên đầu tư nước ngoài vào các đề án dầu khí biển, nhất là biển sâu ở Indonesia cũng bị giảm. Năm 2014, thu nhập từ thuế dầu khí chỉ chiếm 14,4% ngân sách quốc gia trong lúc trợ cấp cho ngành điện và xăng dầu chiếm đến 20%", theo thông tin từ Tổ chức tình báo địa - chính trị Stratfor.

Tuy nhiên, cả trong trường hợp nếu thu nhập của chính phủ từ nguồn dầu khí năm 2015 giảm đi một nửa thì việc giảm, hay loại bỏ trợ giá năng lượng vẫn giúp cho nước này có tiền để có thể tăng chi phí cho các dịch vụ xã hội và xây dựng cơ sở hạ tầng như đã dự kiến trong kế hoạch nhà nước.

Các giải pháp đối phó với hiệu ứng tiêu cực từ giá dầu thấp của Pertamina cũng tương tự như nội dung của các công ty dầu khí khác. Điều đáng lưu ý là chính phủ Indonesia đã 2 lần thay đổi luật dầu khí theo hướng dứt khoát chuyển Pertamina sang thành một tập đoàn sản xuất, kinh doanh bình thường, bình đẳng với các tập đoàn kinh tế khác, không còn làm một số chức năng quản lý nhà nước trong các hoạt động dầu khí. Theo đó, mọi đề án, công trình được nhận thông qua đấu thầu công khai, minh bạch như các công ty dầu khí tư nhân trong nước và nước ngoài, được tự chủ sử dụng vốn đầu tư của chính phủ và nộp thuế, nộp ngân sách nhà nước theo quy định của luật pháp, không có các ưu đãi gắn với tính chất độc quyền của một doanh nghiệp quốc doanh như trước khủng hoảng giá dầu.

Giải pháp này có lẽ đã góp phần to lớn trong việc đấu tranh xóa bỏ tình trạng tham nhũng nặng nề trong ngành dầu khí Indonesia trước kia.

Thái Lan

Thái Lan là nước áp dụng chế độ hợp đồng tô nhượng dầu khí với các công ty nước ngoài và là nước nhập khẩu năng lượng lớn nhất ở Đông Nam Á nên được hưởng lợi nhiều nhất nhờ giá dầu rẻ. Nguồn thu từ công nghiệp khai thác dầu khí nội địa chỉ chiếm 3,5%GDP (2014) và nước này chỉ phải chi khoảng 15% GDP cho nhập khẩu dầu mỏ trong năm 2015 - mặc dù khối lượng dầu thô nhập khẩu tăng 5,5% so với năm 2014.

Chính phủ Thái Lan vẫn duy trì chương trình trợ cấp giá nhiên liệu cho các hộ nghèo vì khối lượng tiền trợ cấp này không còn đáng kể, ít ảnh hưởng đến ngân sách.

Theo Stratfor, ngành năng lượng Thái Lan dựa chủ yếu vào khí đốt, trong đó 70% là từ nguồn nhập khẩu từ Myanmar bằng đường ống nên giá tương đối cao. Do đó Thái Lan đẩy mạnh phát triển công nghiệp khí đốt nội địa kết hợp với nhập khẩu LNG.

Kể từ tháng 9/2009, lần đầu tiên trong tháng 1/2015 lạm phát ở Thái Lan đã có giá trị âm, GDP tăng được 0,5 điểm, chủ yếu là do giá dầu rẻ.

Tương lai của ngành dầu khí thượng nguồn của Thái Lan không có nhiều thuận lợi vì trữ lượng tài nguyên dầu khí nội địa không lớn, diện tích các bể trầm tích ở biển và trên đất liền hạn chế và các mỏ đang khai thác đang dần chuyển sang giai đoạn cạn kiệt. Vì thế chiến lược dầu khí Thái Lan hướng sang phát triển công nghiệp lọc - hóa dầu với mục tiêu đưa Thái Lan thành một trung tâm cung cấp, phân phối nhiên liệu và nguyên liệu từ dầu khí cho khu vực (giống như mô hình của Singapore).

Để giảm nhẹ ô nhiễm môi trường trong nước, Thái Lan chủ trương đầu tư đưa các nhà máy lọc - hóa dầu ra nước ngoài. Trong nhiều năm nay, PTT Thái Lan chú trọng đến các nguồn tài nguyên dầu khí phi truyền thống và bước đầu tham gia vào ngành công nghiệp năng lượng xanh, tái tạo. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của PTT (mua tài sản dầu khí ở nước ngoài, góp vốn đầu tư, tự khai thác, hoặc hợp tác với các công ty dầu khí khác khai thác một số mỏ, vv…) với quy mô nhỏ và hướng vào các đối tượng ít rủi ro - nhất là rủi ro chính trị, an ninh.

Myanmar

Mặc dù từ 1963 trở về trước, tài nguyên dầu khí Myanmar nằm trong tay nước ngoài và là nước có thùng dầu xuất khẩu đầu tiên trên thế giới (từ 1853) nhưng trữ lượng phát hiện trong nước chỉ chủ yếu trên đất liền, hoạt động dầu khí biển chỉ mới bắt đầu gần đây nên không lớn.

Tuy nhiên, ngành dầu khí đã đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nguồn thu từ xuất khẩu dầu khí năm 2013 chiếm 40% trong tổng giá trị xuất khẩu.

Về mặt nhà nước, để giảm tác động tiêu cực của giá dầu thấp Myanmar đề ra các biện pháp quản lý sau:

1/ Ưu tiên đáp ứng nhu cầu nội địa.

2/ Xây dựng chiến lược phát triển năng lượng bền vững.

3/ Áp dụng chính sách sử dụng rộng rãi năng lượng tái sinh, năng lượng mới và sử dụng năng lượng hiệu quả, tiết kiệm cũng như sử dụng năng lượng thay thế cho dân sinh (household).

4/ Sử dụng nguồn thu từ các phát hiện dầu khí phục vụ cho lợi ích toàn dân một cách có hiệu quả, công bằng giữa các bang và cho phép kinh tế tư nhân tham gia nhiều hơn vào ngành năng lượng.

5/ Về đối ngoại, Myanmar sẽ giảm xuất khẩu khí đốt cho Thái Lan và tăng nguồn thu thông qua phí dẫn dầu khí bằng đường ống quá cảnh Myanmar - Trung Quốc.

Philippine, Singapore, Lào, Campuchia

Philippine cũng là nước hưởng lợi lớn từ giá dầu rẻ, đặc biệt là chính phủ nước này không còn phải trợ giá năng lượng, mặc dù các đề án dầu khí bị giảm đầu tư.

Theo ANZ Research, giá dầu rẻ sẽ giúp giảm lạm phát trong năm 2015 đến 3%, tạo cơ hội cho ngân hàng trung ương của nước này dễ dàng triển khai thực hiện chính sách tiền tệ và cho phép chính phủ gia tăng thu nhập thông qua đẩy mạnh vận tải bằng đường sắt dùng động cơ điện.

Sản lượng dầu khí hiện nay của Philippine không đáng kể so với nhu cầu. Chủ trương hợp tác với Trung Quốc thăm dò - khai thác dầu khí biển, nhưng không có thông tin về giữ được quyển chủ quyền nước chủ nhà theo Luật quốc tế biển nên được dư luận bàn cải nhiều xung quanh chủ đề này - vì điều đó có nghĩa là chấp nhận các vùng trên thềm lục địa không tranh chấp thành vùng tranh chấp với Trung Quốc.

Chi phí năng lượng với giá rẻ cũng có tác động tích cực đối với các nước nhập khẩu xăng dầu hoàn toàn như: Singapore, Lào, Campuchia. 

KI​ẾN NGHỊ CHO TRƯỜNG HỢP VIỆT NAM

Ngành công nghiệp dầu khí Việt Nam hiện nay dù đã đạt được những thành tích đáng tự hào, nhưng nghiêm túc nhìn lại thì Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) vẫn còn nằm trong khuôn khổ của công nghệ - kỹ thuật, cơ chế quản lý truyền thống của thế kỷ XX (dù từ 1990 đến nay đã thay tên từ các loại hình công ty sang tập đoàn đến 4 lần).

Tuy nhiên, sau mỗi lần thay đổi đó lại chưa có các nghiên cứu, phân tích khoa học đầy đủ các ưu điểm, nhược điểm, khuyết điểm của mô hình được thử nghiệm, cũng như tính ưu việt của mô hình mới, mà chỉ nhận biết qua "cảm tính" dựa trên những lý thuyết chưa được kiểm nghiệm. Hoạt động của PVN được tiến hành dưới sự chỉ đạo, phê duyệt của Chính phủ...

Dựa trên những hiểu biết còn rất hạn chế của mình về hiện trạng đổi mới của ngành dầu khí thế giới cũng như của Việt Nam, để góp một phần nhỏ đẩy mạnh sự nghiệp đã có của ngành Dầu khí Việt Nam, chúng tôi kiến nghị các điểm sau đây.

1/ Với Chính phủ

Thứ nhất: Điều chỉnh Luật Dầu khí, thay đổi các điều khoản liên quan đến tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của PVN theo hướng trở thành một doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh đầy đủ như Pertamina, nâng cao quyền tự chủ và các trách nhiệm đối với nhà nước theo quy định của pháp luật, không làm các nhiệm vụ thuộc quản lý nhà nước.

Mặt khác, tách các đề án thuộc phạm vi điều tra tài nguyên cơ bản và các đề án có mục đích khác ngoài dầu khí ra khỏi nhóm các đề án sản xuất, kinh doanh để không tính vào chi phí sản xuất của tập đoàn.

Thứ hai: Vì đặc điểm địa chất - địa lý và cấu trúc mỏ ở các bể trầm tích dầu khí của Việt Nam cũng như tình hình an ninh rất khác nhau nên cần mở rộng các dạng hợp đồng thượng nguồn phù hợp với thực tế từng khu vực để tạo thuận lợi cho thu hút đầu tư nước ngoài.

Thứ ba: Cải tiến các chính sách, chiến lược, kế hoạch dầu khí phù hợp với trạng thái giá dầu khí quá thấp kéo dài, cải tiến tổ chức và cơ chế quản lý nhà nước đối với ngành Dầu khí Việt Nam phù hợp với tập tục quốc tế và môi trường toàn cầu hóa.

Thứ tư: Ban hành Luật sử dụng nguồn thu từ dầu khí để ngăn chặn tính tùy tiện dẫn đến tiêu cực trong quản lý tài chính quốc gia như tất cả các nước có hoạt động dầu khí khác trên thế giới.

Thứ năm: Hợp tác thăm dò - khai thác dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của Việt Nam.

2/ Với Tập đoàn Dầu khí Việt Nam

Thứ nhất: Áp dụng các giải pháp của PVN đã soạn thảo và được phê duyệt cộng với các giải pháp chọn lọc từ kinh nghiệm nước ngoài phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Thứ hai: Kế hoạch năm và trung hạn được lập dựa trên giá dầu cơ bản phù hợp với khuynh hướng giá dầu thấp như Petronas.

Thứ ba: Đầu tư ra nước ngoài được xem là hoạt động kinh doanh bình thường, theo cơ chế thị trường, không xem là hoạt động bảo đảm an ninh năng lượng để không tiến hành ồ ạt, không xem xét đầy đủ tới tất cả các loại rủi ro.

Thứ tư: Coi trọng hơn nữa đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học, sáng chế, phát minh công nghệ, sử dụng đúng và tăng cường đào tạo nâng cấp chuyên gia kinh tế, kỹ thuật, có chính sách giữ gìn tài nguyên chất xám trong khi bắt buộc phải giảm biên chế nhân lực.

Thứ năm: Việc tìm ra trữ lượng dầu mỏ lớn trong đá móng nứt nẻ phân bố rộng ở nước ta là một phát hiện khoa học có giá trị cao trong lĩnh vực dầu khí thế giới và cho đến nay sản lượng khai thác từ đối tượng này vẫn chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng sản lượng dầu thô của PVN.

Tuy nhiên, có lẽ chúng ta chưa đặt phát hiện này trong loại hình "dầu khí phi truyền thống" nên chưa đầu tư ưu tiên cho nghiên cứu tiếp thu, nhận chuyển giao công nghệ phi truyền thống của nước ngoài và cải tiến, sáng tạo thêm để áp dụng chúng trong các hoạt động thăm dò - khai thác nhằm đạt được giá thành thùng dầu cạnh tranh tốt hơn so với dầu mỏ truyền thống trong điều kiện giá dầu thấp.

Cùng các giải pháp phổ dụng trong các công ty dầu khí quốc tế, với đội ngũ cán bộ, công nhân thông minh và giàu lòng yêu nước, không gian để tìm ra và áp dụng các giải pháp tối ưu để xử lý tác động của giá dầu thấp của ngành Dầu khí Việt Nam là rất lớn.

Đối với nền kinh tế Việt Nam - là nước nhập khẩu dầu và các sản phẩm dầu cao hơn nhiều so với giá trị dầu thô xuất khẩu thực có của mình (không bao gồm dầu của đối tác được hưởng theo quy định trong hợp đồng PSC) thì giá dầu thấp mang lại nhiều lợi ích cho nhân dân, cho sự phát triển nhanh các ngành kinh tế ngoài dầu hơn là thiệt hại. Nên thiết nghĩ, cần tập trung bàn các giải pháp giúp ngành dầu khí sản xuất, kinh doanh có lãi cao trong điều kiện giá dầu thấp kéo dài sẽ hợp lý hơn là tìm các giải pháp để tăng sản lượng giúp tăng nguồn thu. Trên thế giới (trừ Nga, Venezuela), không ai làm như thế, nhất là các nước nhập khẩu dầu ròng vì tiền bán dầu thô chỉ mua lại được chưa đến 2/3 lượng xăng thu được, nếu tự lọc số dầu thô đã bán.

Lịch sử công nghiệp dầu mỏ thế giới cho thấy, khi các nhà quản lý nhận thức rõ các điều nói trên thì việc chọn được chiến lược tối ưu, sử dụng được mọi tiềm năng - nhất là tiềm năng trí tuệ để khắc phục các khó khăn trước mắt của PVN chắc chắn sẽ thành công.

[*] TS. Trần Ngọc Toản hiện đang tham gia công tác tại Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ cao (Đại học Duy Tân Đà nẵng) và Hội đồng Phản biện Tạp chí Năng lượng Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

[1].Trần Ngọc Toản: Ngành dầu khí làm gì khi giá dầu thấp (Năng lượng Việt Nam số 133+134,tháng 6+7/2016, trang 17-20).

[2] Trần Ngọc Toản: Đối phó với giá dầu thấp - Kinh nghiệm của Petronas và Petrobras (Năng lượng Việt Nam số 140-141,tháng 1+2/2017, trang 16-19).

(Khi sao chép, trích dẫn nội dung, số liệu từ bài viết này phải ghi rõ "nguồn", hoặc "theo": TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM)

nangluongvietnam.vn/

Các bài mới đăng

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động