Tìm giải pháp nâng cao hiệu quả Kho cảng PV GAS Vũng Tàu
07:29 | 22/10/2019
PV GAS và chiến lược phát triển ngành công nghiệp khí
Hội thảo “Nâng cao hiệu quả sử dụng và khai thác Kho cảng PV GAS Vũng Tàu”.
Buổi hội thảo có sự tham dự của đại diện các Ban thuộc Tổng Công ty và lãnh đạo các đơn vị liên quan: Ban Kế toán, Ban Đầu tư Xây dựng, Ban Thị trường, Ban Kỹ thuật Công nghệ; Công ty Chế biến Khí Vũng Tàu, Công ty Kinh doanh Sản phẩm Khí, Công ty Quản lý Dự án Khí, Công ty Dịch vụ Khí (DVK).
KCVT nằm trên địa bàn xã Tân Phước, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, được PV GAS giao cho KVT quản lý vận hành từ năm 2000. Đây là kho chứa khí hóa lỏng (LPG), xăng nhẹ (condensate) lớn nhất Việt Nam, có nhiệm vụ chính là tàng chứa, xuất/nhập các sản phẩm LPG, condensate của Nhà máy Xử lý khí Dinh Cố; condensate của Nhà máy khí Nam Côn Sơn và nguồn LPG nhập khẩu cho các tàu và xe bồn, vận chuyển đến các hộ tiêu thụ.
Đây là mắt xích quan trọng, hoạt động liên tục trong dây chuyền khí Bạch Hổ, Nam Côn Sơn, với sức chứa tương đương 50% tổng công suất kho chứa LPG cả nước, góp phần quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và bình ổn thị trường LPG trong nước.
Ngoài ra, cảng PV GAS Vũng Tàu còn thực hiện các dịch vụ nhập hóa chất VCM cho Công ty Nhựa và Hóa chất Phú Mỹ (AGC Chemicals Viet Nam); Xuất/nhập sản phẩm xăng, dầu cho Công ty PV Oil Phú Mỹ; Khai thác dịch vụ cảng hướng tới các khách hàng tàu, xe bồn và khu công nghiệp Cái Mép.
Hiện tại Kho cảng PV GAS Vũng Tàu quản lý và vận hành: Kho định áp (LPG và condensate bể Cửu Long/Nam Côn Sơn); Kho LPG lạnh nhập khẩu từ nước ngoài; Kho LPG Gò Dầu (tại Đồng Nai) và các thiết bị phụ trợ; Trạm nạp LPG xe bồn Thị Vải; Cầu cảng xuất/nhập sản phẩm bằng tàu với tải trọng lên tới 60.000 DWT. Đặc biệt, hệ thống kho chứa LPG sức chứa 75.000 tấn (chiếm khoảng 50% tổng công suất kho chứa LPG tại Việt Nam).
Kho cảng PV GAS Vũng Tàu được áp dụng công nghệ tiên tiến và trang thiết bị hiện đại, đáp ứng các yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn và phòng chống chảy nổ; hiện đang áp dụng và đã nhận được các chứng chỉ: Quản lý chất lượng ISO-9001, An toàn OHSAS -18001 do tập đoàn TUV của Đức cấp từ năm 2004 và BSI đánh giá và chứng nhận lại hàng năm; Triển khai, áp dụng tiêu chuẩn ISO 14001, đã được công ty BSI đánh giá chứng nhận lại hàng năm; được Cục Hàng hải cấp giấy chứng nhận phù hợp của Cảng biển theo Bộ luật ISPS (Bộ luật quốc tế về an ninh tàu và cảng biển); là thành viên của Diễn đàn công ty dầu mỏ quốc tế (OCIMF) từ năm 2009.
Nhờ duy trì công tác đảm bảo an ninh, an toàn một cách nghiêm túc, có hệ thống, nên trong suốt quá trình hoạt động, Kho cảng PV GAS Vũng Tàu vận hành liên tục, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, xây dựng và duy trì nền văn hoá An toàn - Chất lượng - Hiệu quả.
Hàng năm, Kho cảng PV GAS Vũng Tàu xuất nhập trung bình cho trên 1.000 chuyến tàu và khoảng 20.000 xe bồn, sản lượng hàng xuất/nhập qua kho cảng đóng góp khoảng 60% nhu cầu LPG cho thị trường nội địa Việt Nam (khoảng 1 triệu tấn/năm), khoảng 1/3 nguyên liệu để sản xuất hạt nhựa PVC tại Việt Nam (khoảng 170.000 tấn/năm).
Ngoài ra, thực hiện xuất 100% sản phẩm condensate của PV GAS, TNK/Rosneft và BDPOC với khối lượng khoảng 150.000 tấn/năm (đây là hai nhà sản xuất condensate hiện nay của Việt Nam).
Trong quá trình vận hành, bên cạnh những kết quả nổi bật với sự nỗ lực 24/7 của tập thể Lãnh đạo và CBCNV KVT, KCVT vẫn bộc lộ những hạn chế do quá trình sử dụng trải qua nhiều năm, cơ sở hạ tầng bắt đầu quá tải, cần thiết phải quy hoạch mở rộng, tăng cường công nghệ cũng như đẩy mạnh sự phối hợp đồng bộ hơn giữa các bên liên quan.
Tại Hội thảo, các đại biểu đã cùng nhau trao đổi các vấn đề chính như:
1/ Quy hoạch tổng thể mặt bằng KCTV cho dài hạn.
2/ Phương án đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng để đáp ứng sự tăng trưởng hoạt động kinh doanh LPG, propan và các dịch vụ cảng khác.
3/ Cải tiến công tác quản lý sản phẩm lỏng và giao nhận hàng LPG.
Các vấn đề đưa ra đều được Hội thảo phân tích kỹ lưỡng, trao đổi tranh luận nhiều chiều để làm nổi bật những khó khăn vướng mắc hiện nay, những vấn đề khẩn thiết cần thực hiện tại KCTV; từ đây, có góc nhìn tổng quan để có thể tham mưu cho các cấp lãnh đạo, định hướng tổng thể để tận dụng tối đa hệ thống cơ sở vật chất hiện hữu, nâng cấp cơ sở vật chất, đầu tư các dự án mới trong tương lai./.
TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM