RSS Feed for Giải pháp nào cho an ninh năng lượng Việt Nam? | Tạp chí Năng lượng Việt Nam Thứ sáu 29/03/2024 18:14
TRANG TTĐT CỦA TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

Giải pháp nào cho an ninh năng lượng Việt Nam?

 - Theo dự báo, cán cân năng lượng quốc gia của Việt Nam trong vài năm tới còn nghiêng về xuất khẩu tịnh. Cán cân cung cầu năng lượng sơ cấp (than, dầu mỏ khí đốt, thuỷ điện và các dạng năng lượng tái tạo khác) ở nước ta sẽ bắt đầu thiếu hụt, cánh kéo thiếu cung cấp sẽ ngày càng dãn ra, mặc dù mới tính toán theo phương án nhu cầu trung bình, chưa tính phương án cao. Nếu không có các giải pháp nghiêm túc và thực hiện hiệu quả thì an ninh năng lượng Việt Nam sẽ ngày càng kém đi.

Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 1)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 2)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 3)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 4)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 5)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 6)
Đã đến lúc chúng ta phải công bằng với thủy điện (Bài 7)
Thuế tài nguyên than và sự mập mờ, ngụy biện của Bộ Tài chính
Dầu khí Việt Nam: Hiện trạng và thách thức phát triển (Bài 5)
Vì sao Việt Nam cần phát triển nhiệt điện than? (Tạm kết) 

TS. NGUYỄN ANH TUẤN

Bối cảnh chung và những đánh giá tổng quan về cung cầu năng lượng Việt Nam 

An ninh năng lượng ngày nay và trong một hai thập kỷ tới đang là những quan ngại của nhiều quốc gia. Ngoại trừ Nga, Mỹ và một vài nước Trung Đông, nhiều nước đang và sẽ sớm đối mặt với thiếu hụt cung cấp năng lượng. Việt Nam tuy mới là quốc gia có nền kinh tế đang phát triển và mới đạt được mức độ thu nhập trung bình, nhưng với sức rướn của một đất nước giàu truyền thống và con người thông minh, cần cù, dự báo đất nước ta sẽ tiếp tục phát triển nhanh trong thập kỷ tới. Cung cầu năng lượng nói chung và cung cầu điện nói riêng ở nước ta đang có những bức xúc. Xem xét nghiên cứu một cách nghiêm túc và sâu sắc về giải pháp an ninh năng lượng là vấn đề không chỉ của Nhà nước, Chính phủ mà là trách nhiệm của mọi người dân.

Nhìn chung toàn cầu: thuỷ điện vốn là nguồn năng lượng có thể tái tạo đã được khai thác khá mạnh, đang ngày càng gặp phải những vấn đề về môi trường (mất đất, xói lở, biến đổi hệ sinh thái, di dân…); than đá chỉ đủ dùng cho khoảng 150-:-200 năm; dầu thô-khí đốt chỉ còn cho 60-:-70 năm; nhiên liệu Urani cho các nhà máy điện hạt nhân cũng chỉ đủ cho 70 năm, nếu không có biện phát tái xử lý nhiên liệu đã cháy.

Nhiều quốc gia giàu có cũng đang đau đầu về giải bài toán cung cấp đủ năng lượng cho nền kinh tế, đáp ứng phát triển bền vững trong điều kiện giá cả năng lượng đang tăng nhanh. Trong công cuộc đẩy mạnh phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, năng lượng ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn.

Theo các chuyên gia, Việt Nam có đa dạng nguồn nhiên liệu năng lượng, song không thực sự dồi dào. Tiềm năng kinh tế - kỹ thuật nguồn thuỷ điện nước ta được đánh giá có thể sản xuất hàng năm khoảng 65-:-70 tỷ kWh.

Theo quy hoạch khai thác của ngành than, sản lượng than sẽ chỉ đủ cung cấp cho khoảng 12.000 MW, nghĩa là sản xuất được không quá 72 tỷ kWh mỗi năm, kể cả đến những năm 2025-2030.

Với nguồn khí đốt tại các mỏ ngoài khơi, theo tính toán chỉ đủ cho phát triển các nhà máy điện khí để sản xuất trên 100 tỷ kWh/năm và khoảng 3-5% lượng khí đốt cần cung cấp cho các hộ công nghiệp khác.

Còn tiềm năng khai thác dầu thô sẽ sớm đạt tới mức trần (khoảng 17-:-18 triệu tấn/năm) và đã suy giảm dần giai đoạn sau năm 2015. Trên cơ sở đánh giá mức tăng nhu cầu năng lượng và khả năng khai thác các nguồn tài năng lượng trong nước, các chuyên gia đã tính toán cân đối nhu cầu tổng thể và khả năng đáp ứng các loại năng lượng sơ cấp trong dài hạn như bảng và hình minh hoạ sau.

 

Từ đây ta có thể nhận định: khả năng khai thác các nguồn năng lượng sơ cấp trong nước vượt trên nhu cầu kể từ 2015, cán cân năng lượng của Việt Nam trong vài năm tới còn nghiêng về xuất khẩu tịnh. Nhưng trong những năm tới, cán cân cung cầu năng lượng sơ cấp (than, dầu mỏ khí đốt, thuỷ điện và các dạng năng lượng tái tạo khác) ở nước ta sẽ bắt đầu thiếu hụt, cánh kéo thiếu cung cấp sẽ ngày càng dãn ra, mặc dù mới tính toán theo phương án nhu cầu trung bình, chưa tính phương án cao. Nếu không có các giải pháp nghiêm túc và thực hiện hiệu quả thì an ninh năng lượng nước ta sẽ ngày càng kém đi.

Giải pháp cho an ninh năng lượng ở Việt Nam

Trong "Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2050" đã nêu hai quan điểm phát triển năng lượng dài hạn, thể hiện sự chú trọng của Chính phủ về an ninh năng lượng.

Thứ nhất: Phát triển năng lượng phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đảm bảo đi trước một bước với tốc độ cao, bền vững, đồng bộ, đi đôi với đa dạng hóa các nguồn năng lượng và công nghệ tiết kiệm năng lượng là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thứ hai: Phát triển năng lượng quốc gia phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên trong nước, kết hợp với việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước ngoài một cách hợp lý, thiết lập an ninh năng lượng quốc gia trong điều kiện mở, thực hiện liên kết hiệu quả trong khu vực và toàn cầu, gắn với giữ vững an ninh quốc gia và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ.

Một số giải pháp an ninh năng lượng được cho là quan trọng và phù hợp với Việt Nam được tóm tắt như sau.

Một là: Tiết kiệm và hiệu quả năng lượng được đánh giá là giải pháp luôn được ưu tiên vì là giải pháp đòi hỏi đầu tư thấp hơn nhiều so với các giải pháp khác. Nhiều nội dung vận động mọi người có ý thức tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng đang được triển khai mạnh mẽ trong một chương trình mục tiêu quốc gia. Các cuộc vận động người dân với khẩu hiệu: "Tắt bớt đèn khi không cần thiết và trước khi ra khỏi phòng"; "đặt máy điều hoà ở mức 27 độ -:-28 độ C"; khuyến khích người tiêu dùng "Thay bóng đèn sợi đốt bằng đèn huỳnh quang và đèn compact"; chương trình "Tiến hành dán nhãn các thiết bị điện tiết kiệm năng lượng và khuyến khích người dân sử dụng thiết bị tiết kiệm năng lượng"; thực hiện công tác kiểm toán năng lượng để các hộ công nghiệp và thương mại có các biện pháp sử dụng năng lượng hiệu quả nhất…

Theo đánh giá, thực hiện tốt "Chương trình mục tiêu quốc gia về tiết kiệm và hiệu quả năng lượng" có thể giảm được nhu cầu tiêu thụ năng lượng cuối cùng tới trên dưới 10% trong vòng 5 năm tới.

Hai là: Tăng cường công tác khảo sát thăm dò các nguồn tài nguyên năng lượng để nâng cao tiềm năng và trữ năng năng lượng là giải pháp thường xuyên nhằm tăng cường khả năng khai thác sản xuất các nguồn năng lượng sơ cấp, giảm bớt sự phụ thuộc bên ngoài.

Với ngành than, các giải pháp này bao gồm: đẩy mạnh công tác thăm dò đánh giá trữ lượng than trên mức -300m, và tìm kiếm sâu từ -400 đến -1.100 tại vùng than Quảng Ninh. Khuyến khích các địa phương có các điểm than đầu tư thăm dò, để khai thác phục vụ cho nhu cầu tại chỗ; tranh thủ các nguồn vốn để thăm dò đánh giá trữ lượng và nghiên cứu khả năng khai thác vùng than đồng bằng sông Hồng.

Với ngành dầu khí: khuyến khích và đẩy nhanh công tác tìm kiếm thăm dò dầu khí. Xây dựng một hệ thống tổ chức rõ ràng và hiệu quả để giám sát hợp đồng và xét trao thầu các lô thăm dò. Định kỳ xem xét, điều chỉnh các điều khoản về tài chính để việc đầu tư thăm dò, phát triển dầu khí ở Việt Nam cạnh tranh được với các nước khác. Ưu tiên phát triển, khai thác và sử dụng khí thiên nhiên. Khuyến khích và ưu đãi cho các nhà đầu tư thăm dò và khai thác các mỏ khí, đặc biệt là các mỏ khí có trữ lượng giới hạn biên. Đa dạng hóa hình thức đầu tư. Có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng công nghệ cao để khai thác các mỏ dầu, khí có trữ lượng giới hạn biên…

Ba là: Đa dạng hoá các nguồn năng lượng là giải pháp tổng hợp, bao gồm giải pháp đa dạng hoá khai thác sử dụng các loại nguồn năng lượng khác nhau. Song song với khai thác các nguồn tài nguyên năng lượng trong nước, cần nghiên cứu ứng dụng các loại nguồn năng lượng khác; nhập khẩu điện và xây dựng các nguồn điện từ các nước láng giềng như: Lào, Campuchia, Trung Quốc để đưa điện về nước ta, nhập khẩu khí hoá lỏng LNG cho sản xuất điện…

Đa dạng nguồn năng lượng còn biểu hiện ở đa dạng hoá các chủ sở hữu khai thác kinh doanh ngành năng lượng, gồm cả chủ sở hữu trong nước và nước ngoài (ví dụ các dự án nguồn điện IPP, BOT…), nhằm huy động vốn, nguồn lực và công nghệ hiện đại cho đảm bảo cung cấp năng lượng.

Bốn là: Tăng cường năng lực nội địa về cung cấp các sản phẩm năng lượng là một giải pháp có tính nguyên tắc. Trong đó, cần quan tâm tới xây dựng các cơ sở chế biến, dự trữ năng lượng. Đồng thời có kế hoạch xây dựng các kho xăng dầu để tăng số ngày đảm bảo dự trữ nhiên liệu quốc gia lên tới 60 ngày và 90 ngày vào năm 2020 và 2030 tương ứng.

Năm là: Thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo là một trong những giải pháp ngày càng được quan tâm, nhất là khi thị trường thế giới về nhiên liệu - năng lượng phi tái tạo (than, dầu khí) đang ngày càng có nhiều thách thức về khả năng khai thác, về giá cả và về các cuộc khủng hoảng chính trị. Mặc dù năng lượng tái tạo có những đặc điểm hạn chế về tính phụ thuộc thời tiết, giá cả thiết bị cao, khả năng khai thác thiết bị thấp hơn các loại nguồn khác, nhưng Chính phủ Việt Nam đã có những chính sách khuyến khích mạnh mẽ để dạng năng lượng này ngày càng chiếm tỷ trọng cao hơn trong tổng thể các nguồn năng lượng.

Đặc biệt phát triển năng lượng tái tạo ở các vùng miền núi, biên giới, hải đảo còn có ý nghĩa về tăng cường năng lực an ninh quốc phòng.

Sáu là: Giải pháp giá, hình thành và phát triển thị trường năng lượng, thị trường điện lực cạnh tranh là giải pháp tất yếu lâu dài, thúc đẩy sử dụng tiết kiệm năng lượng, thúc đẩy sự cạnh tranh hiệu quả trong sản xuất - truyền tải - phân phối và sử dụng năng lượng.

Trong đó, chính sách giá năng lượng được coi là một trong những chính sách đột phá; nhanh chóng xóa bỏ độc quyền, bao cấp trong cả sản xuất và tiêu dùng năng lượng. Giá năng lượng cần được xác định phù hợp với cơ chế thị trường; Nhà nước điều tiết giá năng lượng thông qua chính sách thuế và các công cụ quản lý khác. Đưa giá cả năng lượng về mức phản ánh đúng giá trị đầu vào còn nhằm mục tiêu hỗ trợ các giải pháp về đa dạng hoá đầu tư năng lượng, khuyến khích các nhà đầu tư tham gia vào thị trường sản xuất, cung cấp năng lượng.

Những năm qua, thực hiện chính sách hỗ trợ một số ngành công nghiệp mũi nhọn phát triển, đồng thời hỗ trợ người nghèo, thu nhập thấp, Nhà nước đã duy trì giá năng lượng khá thấp so với khu vực và thế giới. Giá giá điện bình quân sau nhiều lần tăng cũng chỉ bằng 1/3 giá điện Singapo và một nửa giá điện Thái Lan hiện nay (tuy nhiên so sánh như vậy vẫn chưa tính đến khả năng chi trả của người dân với mức GDP đầu người chỉ bằng 1/4 Thái lan và 1/40 Singapo). Nhưng bất luận như thế nào, giá năng lượng thấp đã gây ra một số hệ luỵ, khó khăn như: nhiều hộ sản xuất duy trì nếp sử dụng năng lượng lãng phí, dây chuyền công nghệ lạc hậu, sản phẩm kém cạnh tranh; người dân chưa có ý thức sử dụng điện tiết kiệm; một số nhà đầu tư trong ngành thép, xi măng… lợi dụng giá điện thấp đã xây dựng các nhà máy với quy mô vượt quy hoạch; nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước còn chần chừ khi phát triển các công trình nguồn cung cấp năng lượng.

Hơn nữa, các đơn vị nhà nước được giao nhiệm vụ đầu tư sản xuất cung cấp điện như: EVN, PVN, TKV cũng gặp khó khăn về hoàn vốn, đảm bảo đủ chi phí trong hoạt động điện lực… Với những dự báo về nhu cầu năng lượng của thế giới trong tương lai và khả năng khai thác các nguồn năng lượng đã hạn chế dần, xu thế giá cả năng lượng, nhiên liệu khó có thể quay lại mức như những năm đầu thế kỷ này mà sẽ tiếp tục tăng.

Do vậy, giải pháp đưa giá cả năng lượng phản ánh đúng đầu vào và được điều chỉnh bởi cơ chế thị trường, có những biện pháp điều tiết vĩ mô của Nhà nước là thực sự cần thiết và cấp bách. Chính vì vậy mà ngày 15/4/2011 Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 24/2011/QĐ-TTg về việc giá điện tại Việt Nam được điều chỉnh theo cơ chế thị trường. Theo đó giá điện có thể được điều chỉnh tối đa 4 lần trong một năm, tuỳ theo các yếu tố đầu vào (giá nhiên liệu, tỷ giá, cơ cấu sản lượng điện phát) mà giá điện có thể tăng, giảm thông qua cơ chế giám sát của Bộ Công Thương, Bộ Tài chính.

Sau đó ngày 19/8/2011 Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 31/2011/TT-BCT về quy định điều chỉnh giá điện theo thông số cơ bản đầu vào. Trong dài hạn, trong văn bản phê duyệt QHĐ VII Chính phủ đã có định hướng đưa giá điện lên tới 8,8-:-9 US cent/kWh vào năm 2020.

Ngoài các giải pháp nêu trên, các giải pháp khác được cho là cần thiết với an ninh trong phát triển năng lượng dài hạn cũng cần được quan tâm như: giải pháp huy động và bố trí nguồn vốn cho ngành năng lượng, giải pháp về bảo vệ môi trường sinh thái…

Năng lượng là huyết mạch cho phát triển kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân, với bối cảnh chung toàn cầu và điều kiện cụ thể của Việt Nam, an ninh năng lượng ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn.

Với trách nhiệm cao, Chính phủ đã có những cơ chế năng động và hiệu quả để năng lượng được đảm bảo cung cấp ngày càng đầy đủ với giá cả hợp lý, đảm bảo đủ năng lượng cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trách nhiệm của mỗi người chúng ta là hiểu và tham gia vào việc tuyên truyền, sử dụng năng lượng một cách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả nhất.

TẠP CHÍ NĂNG LƯỢNG VIỆT NAM

nangluongvietnam.vn/

Có thể bạn quan tâm

Các bài mới đăng

Các bài đã đăng

[Xem thêm]
Phiên bản di động